Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

Ăn chay sát sinh và quả báo

Lợi ích ăn chay

   Nhân loại thời nay hầu hết đều thích ăn thịt, dẫn đến xuất hiện tràn lan các bệnh tật như: cao huyết áp, tiểu đường sỏi thận, bệnh tim, xơ cứng mạch máu. Ngạn ngữ có câu:                     
                    “Xưa nay trong một bát canh
                     Oán sâu như bể hận thành non cao
                     Muốn hay nguồn gốc binh đao
                     Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”. 

   Từ ngàn xưa đến nay, một bát canh chúng ta ăn, nhìn qua tuy bình thường chỉ là một bát canh, nhưng sự oán hận trong đó thật sâu hơn biển. Muốn biết vì sao trên thế giới chiến tranh, tai kiếp, binh kiếp, ôn dịch xảy ra mãi không thôi? Tất cả đều do ăn thịt mà ra. Nếu bạn muốn hiểu sự thật, đang đêm bạn hãy thử vào lò mổ xem sao? Giết trâu trâu khóc, giết heo heo khóc, giết dê dê khóc. Những tiếng khóc thê thảm, những tiếng gào thảm thiết, những oán hận trùng trùng, những oan độc, những cừu hận ấy tỏa khắp hư không mới tạo nên bao tai kiếp cho thế gian. Giả sử ai ai cũng ăn chay, thì những oan nghiệt ấy tức khắc tiêu dứt, có thể biến can qua  thành hòa bình, biến bạo lực thành an lành, được như thế mới cứu vãn được tai kiếp cho tương lai.

   1. ăn chay được mạnh khoẻ, sống lâu
   Thứ nhất: thức ăn chay không độc, thịt có độc
   Thức ăn chay phần nhiều đều là rau quả, sinh trưởng lớn lên từ đất, hoặc rong biển… đã nhiều dinh dưỡng lại không có độc tố. Những thực vật này giúp máu giữ được chất kiềm – đây muốn chỉ máu ấy trong sạch. Y học gọi là kiềm tính thực vật. Thực phẩm có thịt ăn vào có thể khiến cho máu mang tính chua – đây muốn chỉ máu ấy dơ, do đó thịt được gọi là thực phẩm mang tính chua. Người ăn chay máu sạch, nên tuần hoàn nhanh, khiến cơ thể nhẹ nhõm thoải mái, hoạt bát, tinh lực dồi dào, chịu đựng giỏi, suy nghĩ nhanh lẹ và sống lâu. Như Hòa thượng Triệu Châu, một cao tăng Phật giáo đời Đường sống đến 150 tuổi. Hòa thượng Hư Vân thời cận đại sống được 120 tuổi. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Đài Loan, nhờ nhiều năm trường trai, 95 tuổi mà vẫn sáng suốt. Những điều này đều là hiện thực chứng minh ăn chay mạnh khỏe, sống lâu. Lại như quán quân bơi lội Mậu-lâm-la-tư của thế vận hội Olimpic, lần đầu tiên, tốc độ của anh ta thật kinh người. Là vận động viên nổi tiếng nhất, anh ta là một người ăn chay. Theo báo cáo của Kiện Đức, một nhà hóa học trứ danh Pháp quốc, ông ta phát hiện thực phẩm thịt là một loại thực phẩm trúng độc mang tính chậm. Bởi vì xuất xứ của thịt là từ heo, dê, gà, vịt… mà động vật lúc vội vàng, giận dữ hoặc sợ hãi thì trong cơ thể sản sinh một vật tiết ra độc tố, độc tố ấy nhanh chóng truyền khắp các mạch máu vi tế và thịt trong toàn thân. Vật tiết độc chất này thông thường đều đầy trong cơ thể, tác dụng “cái mới thay đổi cái cũ” bài xuất ra ngoài, hoặc ra bằng đường đại tiểu tiện. Nếu con vật bị giết trong lúc đang giận dữ hoặc sợ hãi, bộ máy cơ thể bị đình chỉ hoạt động, vật tiết xuất độc tố này không được bài xuất ra, vẫn tồn đọng trong máu thịt. Nếu ăn vào loại thịt này, tất bị trúng độc tố ấy. Cho nên, ăn thịt bằng với trúng độc mang tính chậm. Đã từng có người thí nghiệm qua. Động vật trong lúc giận dữ hoặc sợ hãi, chất tiết độc tố mà cơ thể sản sinh ra, nếu hút ra bằng ống thủy tinh, chỉ cần độc tố bằng một cây nhang đã có thể giết chết một mạng người. May mà độc tố này khi gặp rau quả, bị hóa giải bớt một phần nào. Cho nên lúc nấu nướng, nên bỏ vào một ít gừng tươi, ớt hoặc rau xanh, đậu hủ, sẽ hóa giải bớt độc tố của thịt. Nếu nấu chỉ toàn thịt, không bỏ gừng, tỏi, rau... thì độc tố của thịt không được hóa giải, ăn vào sẽ có hại, lâu dài tất sẽ trúng độc mà chết.
   Năm 1954, viện liệu dưỡng bệnh phổi Gia Nghĩa, Đài Loan có một bệnh nhân tên Quảng. Lúc rút quân khỏi Đại Lục, anh ta theo quân đội đến Đài Loan. Do suy dinh dưỡng, anh ta mắc bệnh phổi. Anh trai anh ta làm ăn buôn bán ở Hồng Kông. Mới đầu đến Đài Loan, không liên hệ được với anh mình. Sau liên lạc được, viết thư báo mắc trọng bệnh. Anh trai gởi đến cho một món tiền lớn. Có tiền, anh liền nghĩ đến bồi bổ. Bồi bổ bằng gì? Ăn gà! Thịt gà là bổ nhất! Ban đầu, hai ngày ăn một con. Ăn liền mấy ngày không thấy khởi sắc. Bồi bổ nữa. Mỗi ngày ăn một con. Ăn liền mấy ngày, sức khỏe lại càng suy nhược. Lại bồi bổ nữa. Một ngày ăn ba con. Phương pháp ẩm thực của anh ta thật đặc thù. Sợ dinh dưỡng của gà theo máu ra hết, vì thế anh nhét gà vào ống tre cho ngột chết, rồi bỏ vào nồi áp suất hầm, sau đó uống hết nước cốt. Uống một ngày ba lần như thế. Uống chưa được mấy ngày thì ôi thôi! Nguyên nhân đưa đến cái chết này của anh ta, lúc đó tôi chẳng hiểu gì cả. Về sau học Phật, nghiên cứu phương pháp ăn chay, mới hiểu được ông Quảng do ăn thịt trúng độc mang tính chậm mà chết. Không những súc sinh mà con người cũng thế. Con người lúc giận dữ, sợ hãi, sắc mặt bỗng chốc đỏ mặt tía tai hoặc nhợt nhạt, điều này đều do tinh thần bị kích động mà sản sinh độc tố, hiện tượng biến hóa trong máu. Độc tố này đối với phụ nữ còn phát sinh cả trong sữa nữa, nếu cho con bú sẽ nguy hiểm tính mạng. Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao có kể câu chuyện thế này: có một phụ nữ người Âu, sau khi chăm chú nghe Ấn Quang đại sư khai thị lý giới sát ăn chay, bèn khóc rống lên. Bà ta đau xót cho hai đứa con trai của mình, chết do độc của sữa. Vốn là hai vợ chồng bà thường hay xảy ra bất hòa, cãi vã. Mỗi khi hai vợ chồng gầm thét như sấm, đứa bé sợ khóc thét lên. Là người làm mẹ, để con thôi khóc, lập tức vạch áo đút ngay núm vú vào miệng đứa trẻ, tuy đứa trẻ đã thôi khóc, nhưng từ đó cơ thể suy nhược dần, không bao lâu thì chết. Từ sự thật của hai câu chuyện này, có thể thấy: ăn chay không độc, thịt có độc. Tất nhiên, cần phải tức tốc giới sát ăn chay.
   Thứ hai: Nhân loại nên ăn chay, chớ nên ăn thịt
   Theo tiến sĩ Hàn Đinh Đốn của trường đại học Ca-luân-tỷ-á Mỹ quốc, đã từng giải phẫu phân tích đường ruột, chứng minh con người thích hợp ăn chay mà không thích hợp ăn thịt. Ông ta giải thích ruột non của động vật ăn thịt thì ngắn, ruột già thẳng và trơn nhẵn; ruột non của động vật ăn chay thì dài, ruột già cũng dài; ruột của động vật ăn thịt lẫn ăn chay dài hơn động vật ăn thịt, ngắn hơn động vật ăn chay. Ruột già của con người dài khoảng 5 – 6 mét và quằn tới quằn lui, vách ruột không láng đồng thời chồng lên một đống. Đường ruột như thế chỉ thích hợp với ăn chay, không thích hợp với ăn thịt. Bởi vì thịt ít chất xơ, sau khi tiêu hóa để lại cặn bã. Ruột của con người tương đối dài, thức ăn ở trong ruột quá lâu sẽ sinh ra độc tố, tăng thêm gánh nặng cho gan. Gan quá sức chịu đựng sẽ trở nên xơ cứng, thậm chí ung thư. Lại nữa, trong thịt có rất nhiều a xít uric, Urê, ăn vào tăng thêm gánh nặng cho tạng thận, dẫn đến bệnh thận. Vả lại, thịt ở trong ruột già, ruột non phải qua sự hấp thu quá độ không cần thiết. Và thịt vốn lại thiếu chất xơ, dễ tạo nên táo bón, dẫn đến bệnh trĩ và ung thư trực tràng. Sự phân tích đường ruột con người trên đây, đủ để chứng minh con người ăn thịt là “tự rước họa vào thân”.
   Thứ ba: Thức ăn thịt dễ dẫn đến bệnh tật
   Sự nguy hại lớn nhất đến sức khỏe của người già, trung niên là colesterin, mà hàm lượng colesterin tương đối có nhiều trong não, thần kinh, máu, nước mật, lòng vàng trứng và mỡ… của động vật. Colesterin là chủ thể cấu thành hocmon của tuyến thượng thận và vitamin D. Tố chất dinh dưỡng này, thanh niên, trung niên hấp thu một lượng vừa phải rất là hữu ích. Nếu trong máu của một người chứa colesterin quá nhiều, sẽ dẫn đến xơ cứng động mạch, bệnh tim, bệnh cao huyết áp… Tuổi trung niên trở lên thì cơ thể, sinh lý có chiều hướng suy dần. Tất nhiên, cần phải tránh ăn nhiều thực phẩm thịt hàm chứa phong phú chất colesterin để giữ sức khỏe cơ thể.
   Hiện tại, nguyên nhân tử vong đứng đầu ở Đài Loan là bệnh tim, huyết áp. Thống kê từ bệnh chứng, chứng tỏ người Đài Loan ăn thịt quá nhiều. Trong các cuộc báo cáo từ nhiều nghiên cứu khác nhau, đều đưa ra thịt có thể dẫn đến ung thư. Bởi vì thịt lúc chiên nướng, sẽ sản sinh ra một chất hóa học – chất dẫn đến bệnh ung thư nghiêm trọng này. Giả sử ăn thịt chiên nướng, một miếng bít-tết có thể tương đương với chất hóa học – khói của 600 cây nhang. Cho nên, ăn bít tết và thịt quay còn đáng sợ hơn hút cả một khối lượng lớn thuốc thơm. Kế đó, nếu heo bò mắc bệnh ung thư hoặc các bệnh tương tự, ăn thịt của những con vật này, rất có khả năng sẽ bị truyền nhiễm. Lại nữa, có một số nhà chăn nuôi, để phòng súc vật nuôi như heo, bò, gà, vịt không bị truyền nhiễm bệnh dịch, đã bỏ thuốc kháng sinh trong thức ăn gia súc. Điều này khiến cho người ăn thịt cũng bị hấp thu rất nhiều chất kháng sinh. Về sau những người này mắc bệnh, thì kháng sinh và thuốc đặc hiệu của y bác sĩ dùng đều trở thành thuốc mang tính chống kháng vô hiệu hóa, làm cho không thuốc nào chữa được, bó tay chịu chết. Sinh mạng của những người này do thường ngày ăn thịt làm chủ.
   Nguyên nhân tử vong lớn thứ hai ở Đài Loan chính là ung thư. Cồn có thể gây nên bệnh ung thư. Người uống rượu thường bị ác tính niêm mạc khí quản và phế nang tế bào, ung thư thực quản và khối u ác tính dạ dày gián tiếp gây nên ung thư gan, xơ gan cổ trướng. Giữa rượu và ung thư kết tràng, ung thư trực tràng có sự liên quan mật thiết. Cho nên, háo ăn thịt cá, lại thêm tham rượu, bằng với lửa đổ thêm dầu, nguy hiểm vô cùng. Có rất nhiều thực vật phòng chống khối u. Hễ những thực vật giàu vitamin A, C đều có thể dự phòng ung thư. Ví như xúp lơ, dưa bở, khoai lang, cà chua, hạnh tử, trái đào, bí rợ, rau chân vịt, bí đao, bắp cải, su hào, rau cải hoa, bưởi, ớt tươi, chanh, lê, quýt, đậu hà lan, dứa, dâu tây, cam đường, cà rốt, sữa bột… giảm mập. Người ăn chay không cần kiêng kỵ thứ nào. Người Mỹ đã từng điều tra thống kê, vi trùng bệnh trong cơ thể con người, hết 8 phần 10 là do truyền nhiễm từ thịt bò, và người bị bệnh phổi cũng có người do ăn thịt bò. Lại trong dịch Hổ Liệt La, có một loại tên gọi là Đồn Hổ Liệt La, đó chính là bệnh truyền nhiễm từ heo. Đan Mạch sau thế chiến thứ hai, để tái tạo lại đất nước, chính phủ nghiêm cấm nhân dân giết động vật làm thực phẩm. Qua năm thứ hai kinh tế phục hồi mới bỏ lệnh cấm. Ngờ đâu sau khi giải cấm, người dân trong nước mắc bệnh ngược lại cao hơn nhiều so với khi cấm lệnh sát sinh. Có thể thấy, ăn chay có ích, ăn thịt có hại. Lại nữa, trước thế chiến thứ hai, nước Bungari ở Châu Âu được gọi là “đất nước của trường thọ”. Trong 6.000.000 nhân khẩu của toàn đất nước, có đến 160 người thọ trên 100 tuổi. Nguyên nhân trường thọ ấy, qua kết quả của các nhà y học, 95% là ăn chay trường. Đây chính là ăn chay có thể khỏe mạnh, sống lâu.
   Lại một chứng minh nữa: nhà dinh dưỡng học Kha-lâm-tư, Mỹ quốc nói: “Nhân loại nếu có thể bỏ ăn thịt, thì sẽ thu được lợi ích vô cùng”. Ăn chay có thể giữ lâu tuổi trẻ, tinh lực dồi dào, đầu óc mẫn tiệp, da thịt mềm mại, đây là hiện tượng của tuổi trẻ. Ngược lại, thân thể mệt nhọc, thần trí hôn ám, da thịt xù xì, lộ ra dáng vẻ lão hóa. Nay lấy ba cái này làm chuẩn, so sánh giữa ăn chay và ăn mặn, nhà dinh dưỡng học Chu Tu Tuệ nói: “Ăn nhiều thực phẩm có thịt, trong y học gọi là thực vật mang tính chua, có thể làm cho máu mang tính chua, máu dơ. Lúc muốn trung hòa tính chua này, chất canxi trong máu phải tiêu hao lượng lớn. Lượng canxi mất, tế bào sẽ bị lão hóa, cơ thể mỏi mệt không sức chịu đựng, dễ đưa đến thần trí hôn ám và suy yếu. Còn ăn nhiều rau xanh, trái cây, những thực vật mang tính kiềm này, có thể làm cho máu giữ được chất kiềm, máu trong sạch, khiến cho cơ thể nhẹ nhàng, thoải mái, tinh lực dồi dào, chịu đựng giỏi, đầu óc nhanh nhạy đồng thời có thể sống lâu”.
Trên đây, đã đối chiếu sức khỏe và tinh thần của người ăn chay và người ăn mặn, rõ ràng đã thấy: một giữ được vẻ thanh xuân, một suy yếu lão hóa. Sự láng mịn và xù xì của da, chỉ nhìn qua ta có cảm giác ngay là già hay trẻ. Cho nên, da thịt mịn màng là điều kiện chính của sự trẻ mãi. Ăn chay làm sao giữ được nước da mịn màng? Điều này cần phải nói từ thực phẩm dầu mỡ nào mà người ăn chay đã ăn. Giá trị dinh dưỡng của mỡ là: thứ nhất, cung cấp nhiệt năng. Thứ hai, duy trì nhiệt độ cơ thể, bảo vệ nội tạng và làm tươi nhuận da. Thứ ba, giúp đỡ hấp thu vitamin. Chất mỡ quá nhiều làm cho người ta mập, dễ mắc bệnh cao huyết áp, mạch máu não cho đến các bệnh tim, gan, phổi, thận… Nếu mỡ quá ít khiến cho người ta gầy gò, dễ mắc các chứng suy nhược cho đến các bệnh về da. Có hai nguồn mỡ: một là mỡ từ động vật, như mỡ của heo, dê và thịt mỡ, gọi là mỡ động vật. Hai là mỡ từ nhân thực vật, như dầu phụng, dầu đậu nành, gọi là dầu thực vật. Sự hơn thiệt của hai loại dầu mỡ này khác nhau rất lớn. Mỡ động vật là mỡ bão hòa, nhiều colesterin, dễ dẫn đến xơ cứng động mạch, cao huyết áp, bệnh tim, cũng có lợi cho việc sinh sản ung thư tế bào. Dầu thực vật không phải là dầu bão hòa, có thể thúc đẩy tăng gia bài tiết tính chua của nước mật, làm cho colesterin xuống thấp, tránh được bệnh tim và các chứng huyết quản khác. Từ đó có thể thấy, người ăn chay sử dụng dầu thực vật, quả thật là một yếu tố lớn để khỏe mạnh tươi da. Hàm lượng dầu trong thực vật, nhiều nhất là ở hồ đào, chứa 66.90%. Thứ hai là đậu phụng, chứa 48.70%. Thứ ba là mè trắng, chứa 48.23%. Thứ tư là đậu nành, chứa 20.20%. Những dầu này đều không phải là dầu bão hòa, ăn vào có ích không hại. Hàm lượng mỡ trong động vật, nhiều nhất là ở thịt heo, chứa 57.80%. Thứ hai là thịt dê, chứa 25.00%. Thịt bò chứa 13.50%. Nhưng những loại mỡ này đều thuộc mỡ bão hòa, chứa rất nhiều colesterin, dễ dẫn đến bệnh tim, bệnh huyết quản. Nghe nói, ngày xưa nữ minh tinh điện ảnh Hồ Điệp, nhờ ăn chay trường, tuy đã ở tuổi “bảy mươi xưa nay hiếm”, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ xinh đẹp thuở thiếu thời. Đây là một chứng cứ ăn chay có thể không già.

   2. ăn chay có thể phát triển trí tuệ
   Đại Đái Lễ Ký nói: “Ăn thịt dũng cảm nhưng hung hãn, ăn chay thông minh mà hiền hậu”. Đây là thuyết “ăn chay có thể phát triển trí tuệ”, thấy ở những sách tịch cổ đại Trung Quốc. Điều này cực kỳ quan trọng đối với thành phần tri thức trẻ. Rất tiếc những người đề xướng ăn chay sau này, phần lớn chỉ lập luận trên nhân quả nghiệp báo, giới sát hộ sinh, rất ít người lao vào nghiên cứu nguyên lý “ăn chay có trí”, làm lỡ cơ duyên ăn chay cho biết bao người.
   Gần đây, tiến sĩ Bình Sơn Hùng của Viện Vệ Sinh Lập Công Chúng, Nhật Bản, với con mắt của nhà nghiên cứu học thuật, đã thấy được người ăn chay tham dục ít, người ăn mặn tham dục nhiều; người ăn chay tinh thần sáng suốt, người ăn mặn thần chí lơ mơ. Người ăn chay đầu óc nhạy bén, người ăn mặn tinh thần chậm chạp. Phát giác này của ông ta hợp với thuyết “ăn chay đa trí” của người xưa. Hiện tại, có cuốn sách nói về ăn chay, có nói y học gia hiện đại, không ngừng nghiên cứu khảo chứng, đã phát hiện được ăn chay có hai lợi ích lớn. Thứ nhất là ăn chay có thể phát triển trí tuệ và sức phán đoán. Ông ta nói: “Theo sự minh chứng trên, vấn đề sinh lý, sức hoạt động não bộ của con người, là do trong tế bào não có hai lực lượng chính phản tác dụng lẫn nhau, xung kích không ngừng trong bộ óc của con người, hình thành nên cái mà người ta gọi là “suy nghĩ”. Xung đột đến cuối cùng, có một phía giành được thắng lợi, đây chính là cái mà chúng ta gọi là “quyết định”. Nhưng muốn làm cho não bộ phát huy hết được hai tác dụng chính phản, thì cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần thiết cho tế bào não. Thành phần dinh dưỡng này chủ yếu là phu toan, kế đó là vitamin B và dưỡng khí. Và trong thực vật thì ngũ cốc và các loại đậu chứa phu toan và các loại vitamin B phong phú nhất. Thịt đứng thứ hai và phân lượng rất ít, cho nên chỉ có người ăn chay mới có được năng lực não kiện toàn, mới có thể nâng cao trí huệ và sức phán đoán. Nhớ lại 40 năm trước, lúc chúng tôi còn ngồi ghế nhà trường, y học gia thời đó cho rằng, muốn phát triển trí huệ, cần phải ăn nhiều thực vật có chất phốt pho và sắt”. Căn cứ khoa học của ông ta là tế bào da của não thiếu chất phốt pho, nên ảnh hưởng đến năng lực của não. Thần kinh thiếu phốt pho sẽ truyền đạt chậm chạp. Thậm chí chất sắt, cũng là nhân tố chủ yếu nâng cao trí tuệ. Cơ thể con người nếu như thiếu sắt sẽ bị thiếu máu, phát sinh các chứng bệnh chóng mặt, hồi hộp, hay quên, thân thể mỏi mệt. Những người như vậy thành tích học tập chắc chắn sẽ yếu. Thực phẩm có quan hệ mật thiết với việc học như vậy, nên giới học sinh trẻ không thể không biết lợi ích của ăn chay và vấn đề dinh dưỡng thường thức. Mỗi người đều mong muốn mình là người có trí tuệ bậc nhất trên đời, đặc biệt đang là thời học sinh, ai cũng muốn đọc qua một lần là nhớ, vì muốn làm bậc trí siêu cấp, thế là phải bổ não, bổ thận. Người Trung Quốc cổ đại luôn tương truyền một quan niệm sai lầm là: cơ thể suy nhược thì dùng thịt để bồi bổ. Lại cho rằng ăn gan bổ gan, ăn não tất có thể bổ não. Trước đây khoa học chưa phát triển, mọi người không ai biết trong não của heo, dê, trâu, bò có colesterin. Với quan niệm sai lầm rằng ăn não bổ não, làm cho rất nhiều con em nhà quan đầu óc lú lẫn. Trái lại, những con em nhà nghèo khó, cả đời chưa từng ăn bữa cá lại được thông minh, trí tuệ. Cho nên, trong xã hội thường nghe câu ngạn ngữ khuyên con em nhà nghèo khó thế này: “Làm tướng không có dòng, nam nhi nên gắng sức”, hoặc là “Sống được đời cơ hàn, mới là trang nam tử”. Thậm chí có lời khen: “Biết bao tay trắng rốt nên danh”. Nhưng lại có mấy ai biết được đạo lý “ăn chay đa trí” đâu!
   Giới Phật giáo nước ta, hàng tăng ni xuất gia phụng hành Phật pháp Đại thừa nhất loạt đều ăn chay. Từ xưa đến nay, nước ta cao tăng Phật giáo ồ ạt xuất hiện. Có người trí tuệ siêu quần, có người biện tài vô ngại. Nổi danh thiên hạ như Thích Đạo An. Tài cao ngũ ấn Đường Huyền Trang. Bậc trí như ngài Đạo Sinh. 90 ngày thuyết kinh Pháp Hoa đến đá cũng gật đầu. Thanh Lương nhờ đạo đức văn chương làm thầy bảy đời vua. Liên Trì đại sư nhờ ngôn hành  hợp nhất làm tổ thứ tám. Những cao tăng đại đức như vậy tính không thể hết. Tuy nói họ nhờ tu trì Phật pháp mà được phước trí tăng trưởng, nhưng vâng lời Phật dạy trường trai, đối với vấn đề nâng cao trí tuệ cũng là một nhân duyên lớn. Hiện tại, y cứ theo sách sinh dưỡng của trường đại học y, trích lục thực phẩm và cách dinh dưỡng có liên quan đến nâng cao trí tuệ phổ thông nhất, để cung cấp cho những ai có chí ăn chay tham khảo. Đọc kỹ sách này, nội dung đối chiếu thức ăn mặn và thức ăn chay, thấy được khoáng chất có trong thực phẩm chay, cho đến vitamin B cao hơn nhiều so với thực phẩm thịt. Vả lại, chủng loại thực phẩm chay nhiều, nguồn cung cấp phong phú lại không có độc tố, có thể an tâm sử dụng, đủ để chứng minh ăn chay hơn ăn mặn.
   Nãy giờ là bàn lợi ích ăn chay bằng thế gian pháp. Lợi ích của nó còn có thể dùng ngôn từ, số lượng để biểu đạt. Dưới đây luận ăn chay bằng Phật pháp, lợi ích của nó càng không thể nghĩ lường.
   Sát kiếp còn gọi là đao binh kiếp, cũng chính là chiến tranh xảy ra khắp nơi. Binh sĩ thời xưa tác chiến, dùng đao, kiếm làm vũ khí, cho nên chiến tranh xảy ra khắp nơi gọi là đao binh kiếp. Nguyên nhân xảy ra đao binh kiếp này, phàm phu không rõ nhân quả, ngộ nhận rằng chính kẻ xâm lược chủ nghĩa đế quốc gây ra, hoặc những kẻ chính trị dã tâm trong nước gây nên. Nói theo nhân quả nghiệp báo trong Phật pháp, đó không phải là nguyên nhân chính, đó chỉ là một trợ duyên mà thôi. Nguyên nhân chính là do sát sinh ăn thịt mà ra. Bây giờ, đơn cử bài kệ của thiền sư Từ Thọ ra để thuyết minh:
                  “Thế gian đa sát chúng sinh,
            Trả ngay nghiệp báo sinh tình can qua;
                  Nợ mạng tức quyết báo ra,
            Thiếu tiền không trả nhà liền ra tro;
                  Đời nay con vợ thăm dò,
            Quyết rằng kiếp trước phá gia rẽ bầy;
                  Nhân quả thật đúng khôn tầy,
            Rửa tai nghe Phật thuyết rồi tin vâng”.

   Câu thứ nhất của bài kệ “Thế gian đa sát chúng sinh” là nhân, “trả ngay nghiệp báo sinh tình can qua” chính là quả. Đời trước anh giết nó là nhân, đời nay nó giết lại anh là quả; đời trước anh cướp của nó là nhân, đời nay nó đốt nhà anh là quả. Vì sao nó làm cho vợ con anh ly tán? Vì đời trước anh đã từng đào hang, phá ổ của chúng, cũng chính là bắt chim lấy trứng, cho nên đời nay nó ly tán vợ con anh. Nhân quả báo ứng là “ăn tám lạng trả nửa cân”, một chút cũng không sai lệch. Cho nên, muốn không bị quả báo, phải lập tức quy y cửa Phật, tin lý nhân quả không tạo ác nghiệp.
   Tôi đưa ra thêm một sự thật lịch sử để chứng minh: ngày xưa lúc Phật còn tại thế, vua Lưu Ly mang đại binh đi đánh nước Ca-tỳ-la-vệ. Phật từng đích thân đi gặp vua Lưu-ly thỉnh cầu giải quyết hòa bình, nhưng cuộc hòa đàm không thành, Phật bèn bảo dòng họ Thích Ca phòng thủ tự vệ không nên chống trả. Quân đội vua Lưu-ly chiếm thành, chém giết loạn xạ. Lúc đó tôn giả Mục Liên thần thông quảng đại, dùng thần thông hút 500 người dòng Thích Ca vào trong bát, đưa lên cung trời tỵ nạn. Đợi đến khi hết chiến tranh, mở bát ra, 500 người trong bát trở thành bát máu. Tôn giả Mục Liên thỉnh thị đức Phật nguyên nhân. Phật kể vào kiếp quá khứ xa xưa, có một thôn trang, trong thôn có một hồ cá lớn. Vào một ngày lễ, mọi người trong thôn kéo cá ăn thịt. Trong đó có một con cá lớn cũng bị bắt. Lúc đó có một đứa trẻ ăn chay, nhưng vì nghịch ngợm đã dùng gậy gõ đầu con cá lớn ba cái. Con cá lớn đời trước chính là vua Lưu-ly bây giờ, các con cá nhỏ chính là đội quân vua Lưu-ly hiện tại, những người trong thôn hiện nay là người dòng Thích ca bị giết, đứa trẻ không ăn cá nhưng gõ đầu cá ba cái chính là ta. Ta vì không ăn cá nên không bị giết, nhưng gõ đầu cá ba cái nên bây giờ ta bị đau đầu ba ngày. Câu chuyện trên gọi là nhân quả báo ứng, tự làm phải tự chịu, người khác không thay thế được.
   Năm 1927, hội ăn chay Âu Mỹ đại hội vạn quốc ăn chay lần thứ nhất tại Luân Đôn. Những học giả nổi tiếng tham gia phát tâm ăn chay có đến mấy ngàn người. Về sau tại thành phố Tân-la-ngoã, Tiệp Khắc đại hội quốc tế ăn chay lần thứ 7. Đại hội lần này có 23 nước như Trung Quốc, Đức, Pháp, Mỹ, Áo... tham dự. Đại diện Trung Quốc đến đại hội là cư sĩ nổi tiếng Lữ Bích Thành. Trong đại hội này, tiến sĩ Hoa-nhĩ-tự, Anh quốc nói: “Muốn tránh nhân loại đổ máu, cần phải bắt đầu từ trên bàn ăn”. Ý của câu này vô cùng sâu sắc, đề xướng mọi người ăn chay có thể tiêu trừ sát kiếp, đáng cho các nhà chính trị có lòng cứu đời thâm thiết thể hội.

   3.Người ăn chay không bị quả báo
   Sát sinh và ăn thịt, hai nghiệp này đều là ác nghiệp. Có người chỉ tạo một tội, như người ăn thịt nhưng không sát sinh; người sát sinh không thích ăn thịt. Có người lại kiêm cả hai, như kẻ đồ tể thích ăn thịt. Có một số người lém lĩnh, luôn muốn đẩy trách nhiệm cho kẻ khác, làm nghề đồ tể mà đẩy tội sát cho người ăn thịt. Mỗi lần giết heo, miệng luôn nói: “Heo này! Heo này! Mày chớ hận tao, mày là thức ăn của nhân loại, mọi người không ăn tao không giết, mày hãy đòi tội người ăn thịt ấy!”. Còn người ăn thịt lại đổ tội cho người giết thì nói gì? “Họ không bán tao không mua, họ không giết tao không ăn, họ không phải vì tao mà giết mày”. Người ăn người giết đẩy tội cho nhau. Công bằng mà nói tất cả đều là tự biện hộ cho mình.
   Kinh “Lăng Nghiêm” nói rất hay:
                     “Vì lợi giết chúng sinh,
                     Vì tài giăng bủa lưới;
                     Cả hai đều ác nghiệp,
                     Chết đọa ngục kêu la;
                     Nếu không, bảo, nghĩ, cầu,
                     Thì không tam tịnh nhục;
                     Nó hữu nhân mà có,
                     Vì thế không nên ăn”. 
   Tội báo của sát sinh, theo kinh Hoa Nghiêm nói, chắc chắn đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu khổ ba đường. Khi chuyển sinh làm người lại phải bị hai ác báo: một đoản mạng, hai nhiều bệnh. Tam đồ là chánh báo, làm người là dư báo.
                     Luân hồi sáu đường khổ
                     Cháu trai đám cưới bà
                     Trâu, dê ngồi bàn tiệc
                     Bà con nấu trong nồi”. 

   Đây là một đám cưới vợ mà đại sư Hàn Sơn vào thời triều Đường thấy được. Cô dâu chính là bà nội của chú rể chuyển kiếp. Đồng thời lại thấy tân khách ngồi ăn thịt uống rượu trên bàn, vốn là gia súc trâu bò trước đây được nuôi trong nhà, và heo dê nấu trong nồi đều là bà con nội ngoại chuyển thế. Đại sư thấy vậy thương cho chúng sinh phàm phu trong sáu đường, điên đảo không rõ nhân quả, không ngăn được thương tâm ôm mặt khóc òa. Nghe xong bài kệ trên đây, nếu mọi người đều giới sát ăn chay, thì sẽ không có tuần hoàn nhân quả “người chết làm dê, dê chết làm người”, nhân thế cũng vĩnh viễn không còn nghiệp báo “bà con nội ngoại nấu trong nồi”.

4. Người ăn chay tăng trưởng lòng từ bi
    Ăn chay đối với nhân loại mà nói, không kể là giữ được thân thể khỏe mạnh, hay tránh được nhân quả nghiệp báo, những lợi ích khác không thể nói cùng. Lại từ một người khuếch đại đến quốc gia xã hội, khiến cho xã hội an lành, thế giới hòa bình, có thể thấy lợi ích của ăn chay thật không thể tính đếm. Trong vô lượng lợi ích, tôi cho rằng lợi ích lớn nhất của ăn chay, phải là tăng trưởng lòng từ bi. Nghĩa là sao? Đại Trí Độ Luận nói: từ bi là gốc của Phật đạo. Nói rõ hơn một chút, người có lòng từ bi khả vọng thành Phật, làm pháp vương vô thượng cho tam thiên đại thiên thế giới, cho nên nói lợi ích lớn nhất của ăn chay là tăng trưởng lòng từ bi. Nghĩa của từ bi là cho vui cứu khổ. Từ bi đến cực điểm. Đại từ đại bi tức đồng Như lai. Kinh Phạm Võng nói: “Người ăn thịt, đoạn dứt hạt giống Phật tính đại từ bi, hết thảy chúng sinh thấy đều tránh xa”. Người ăn thịt sát sinh tự phì, đây chính là hành vi tàn nhẫn. Khuếch đại tâm tàn nhẫn này, có thể lợi kỷ hại tha, không việc ác nào mà không làm. Người ăn thịt, súc sinh thấy dáng, nghe mùi đều trốn chạy xa. Ví như kẻ đồ tể vào trong xóm, chó sủa giật hồi. Người ăn chay lòng nhân từ ngày một tăng trưởng, khuếch đại lòng từ, hết thảy chúng sinh tất đều yêu mến, đều muốn cho vui cứu khổ. Đây chính là nguyên lý từ bi căn bản của Phật đạo.
   Sát sinh ăn thịt thật là ác nghiệp, tất phải thọ báo không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều là thọ báo tùy theo tâm giết và cách giết tàn nhẫn hay không mà có nhanh chậm, nặng nhẹ, không thể nói một cách khái quát. Nếu sau khi sát sinh, sám hối tu thiện cũng có thể chuyển hậu báo thành hiện báo, trọng báo thành khinh báo. Tôi vì muốn để cho mọi người hiểu một cách thiết thực việc ác báo sát sinh ăn thịt, không ngại hiện thân thuyết pháp. Sơ lược cho mọi người nghe tôi trải qua việc thọ báo ăn thịt như thế nào.
   Năm 18 tuổi, vì chống Nhật cứu nước, tôi đã rời ghế nhà trường, không hề do dự gia nhập hàng ngũ kháng chiến. Nhờ phước đức ông bà, chỉ làm thượng sĩ văn thư nửa năm đã được thăng quan. Từ đó, xa xỉ trong lương bổng. Trước khi tôi thoái hưu xuất gia, lương của tôi thuộc lương nghiệp vụ. Tục ngữ có câu: “Ở núi thì sống vào núi, ở nước thì sống vào nước”. Tôi tuy không đáng được một chữ, nhưng “làm quan được ăn lộc vua”, rốt cuộc tôi tiêu tiền như nước. Có tiền, tôi bèn ăn thịt uống rượu, tạo biết bao sát nghiệp, để rồi cả đêm trằn trọc bất an, do đó cảm thấy chán ớn tiền bạc. Sau xuất gia, không muốn thấy tiền, không muốn giữ tiền, quả thật chính do nguyên nhân này. Nhắc đến bản lĩnh ăn thịt uống rượu của tôi, tuy không nhiều lắm nhưng thật không vừa. Nói đến tửu lượng, đế trắng uống lần một hai chai chẳng ăn nhằm gì, ăn cá ăn thịt càng kinh người hơn. Hễ ngồi xuống là làm liền hai tiếng đồng hồ, ăn một hai cân thịt mỡ không thấy ớn. Tôi thích ăn thịt gà, thịt vịt nhất. Bữa ăn nào cũng có, nhưng ăn thế nào cũng không thấy ngán. Một năm ăn hết bao nhiêu sinh mạng chúng sinh, tôi không hề tính thử. Nhưng có một lần, chúng tôi đóng quân ở Khê Khẩu Áo, Định Hải, Chiết Giang. Lúc mới đến, các nơi phụ cận thôn trang này, đâu đâu cũng thấy gà vịt từng đàn. Mỗi ngày tôi đều nhờ cô chủ đi mua gà vịt giúp, bảo lính cần vụ giết thịt. Nhiều thì năm ba con, ít thì một hai con. Đóng quân ba tháng, mà gà vịt chu vi 5 dặm vuông bị chúng tôi ăn sạch. Có một chiều gió Đông Bắc lớn, tôi lại nhờ cô chủ đi mua gà giúp. Cô ta nói: “Ông còn muốn ăn nữa à! Gà vịt trong vòng 5 dặm vuông gần đây đều bị các ông ăn hết rồi, ông còn muốn ăn sao?”. Tôi nghĩ cô ta chắc vì sợ lạnh nên không muốn đi mua, do đó mới nói như vậy để trách tôi. Thế là tôi đích thân dẫn theo thằng lính cần vụ, đảo một vòng qua các làng xung quanh, quả thật chẳng còn thấy con gà con vịt nào, tôi mới biết rằng mình đã ăn gà vịt nhiều như thế, bất giác giật mình, tôi đã tạo nghiệp sát quá lớn. Năm 1953, tôi quy y Phật. Sau khi đọc kinh hiểu rõ nhân quả, tôi cấp tốc ăn chay muốn chuộc tội trước. Theo tôi biết, tin Phật, ăn chay công khai ngay trong quân đội thì chỉ có mình tôi, nhưng trong lòng lại có cảm giác “hối hận không còn kịp”. Vì cầu một lòng sám hối và hoằng pháp lợi sinh, lấy công chuộc tội nên tôi quyết chí xuất gia. Có lẽ cũng nhờ niệm thiện ấy, mà sát nghiệp tôi tạo đời nay, may ra trọng báo trở thành khinh báo, hậu báo trở thành hiện báo. Hai ngày trước lễ Đoan Ngọ năm 1974, trong thất Vô Lượng Thọ ở chùa Liên Quang, Nam Đầu. 8 giờ sáng điểm chuông bắt đầu lạy Tịnh độ sám. Lúc đó tôi đã bế quan hơn ba năm rồi, lạy Tịnh độ sám cũng đã hơn 9 tháng. Lạy xuống lạy thứ nhất, tôi cảm thấy thân bỗng nhẹ hững. Đi về hướng Tây, đi chưa được mấy bước thì nghe sau lưng có rất nhiều tiếng gà vịt kêu, ngoái đầu lại nhìn chợt thấy gà vịt hàng ngàn con xếp thành ba hàng đuổi theo tôi. Nhìn theo hàng của chúng, ước phải hơn hai dặm mới thấy được điểm tụ tập của chúng. Trên quảng trường trạm Cổ Xa ở Nam Đầu, ở đó còn có cả heo, bò... sắp ngay hàng thẳng lối lên đường, nhìn ngược lại vào mình, trước ngực đang ôm một con vịt đang cạp cạp inh ỏi, những chúng sinh ấy một kêu một đáp. Thấy tình hình này, tôi nghĩ chúng đến tìm mình tính sổ rồi đây, bất giác thất kinh như tỉnh cơn mê. Sau khi tiếp tục lạy xong Tịnh độ sám, sợ quá tôi lâm trọng bệnh, bèn gõ chuông gọi cư sĩ hộ thất Lưu Văn Vũ kể hết tự sự, nhờ ông ta chu đáo cho tôi hơn, trong thời gian gần đây không đi đâu xa. Đâu ngờ ngay tối hôm đó, trược té gãy chân trái ngay trong thất. Tuy mời Đông tây y trị liệu, tốn biết bao tiền của tín chúng, bản thân vẫn đau đớn nói không nên lời, chữa trị thế nào cũng không công hiệu, đến nỗi trở thành “pháp sư một cẳng”. Đây chính là nghiệp báo của tôi sát sinh ăn thịt. Tôi nay nói hết sự thật cho mọi người nghe. Tôi tuy hối hận đã quá muộn, nhưng mong mọi người lấy việc này của tôi làm gương. Mỗi người tự cảnh giác, những ai chưa ăn chay, hãy nhanh chóng giới sát ăn chay để tránh dẫm lên vết xe cũ của tôi.
   Cuối cùng, ngoài khuyến cáo các vị phát tâm giới sát ăn chay, các vị còn nên tu tập pháp môn Tịnh độ nữa, niệm Phật cầu sinh Tây phương, mới được rốt ráo lìa khổ được vui. Trì trai và niệm Phật, cả hai song hành thì lưỡng phần trọn vẹn, nếu chỉ hành một phía cả hai đều thất. Vì sao? Bởi nếu ăn chay không niệm Phật, đời sau nhờ nhân trì trai quá khứ, được giàu sang vinh hiển. Tục ngữ nói: “Một ngày ăn chay, thiên hạ sát sinh không có ta”, huống hồ cả đời trường chay, phước báo ấy làm sao tính đếm? Có phước báo đương nhiên là điều tốt. Nhưng những kẻ giàu sang, hết 9 phần 10 không muốn tu hành, gọi là “giàu sang học đạo khó”. Người phú quý không biết tu tập, tất nhiên cuộc sống của họ chỉ hướng đến hưởng thụ sắc dục, ăn uống, vui chơi. Ăn thì một bữa ngàn mạng chúng sinh, sắc thì gian dâm nữ tú, vui chơi thì nhảy múa ca hò. Những ai sống cuộc sống này, chắc chắn đời sau đọa lạc trong ba đường dữ, sang đời thứ ba tất phải chịu khổ. Lại nếu những người niệm Phật không ăn chay, thì lúc lâm chung bị nghiệp lực chướng tế không được vãng sinh, lưu nhập vào trong bát bộ quỷ thần. Đây chính là sự tổn hại giữa ăn chay và niệm Phật chỉ hành một phía. Nếu đã ăn chay lại niệm Phật, tức hiện tiền thân tâm được kiện khang an lạc, lâm chung vãng sinh Tây phương, thấy Phật nghe pháp chứng tam bất thoái, cuối cùng viên chứng Vô thượng Bồ đề. Lợi ích của công đức ấy rộng lớn như pháp giới, cứu cánh như hư không, vô lượng vô biên không thể nghĩ nghì.
                    “Máu thịt tràn trề khen hợp miệng,
                     Đâu hay oán tắng sánh bằng non!
                     Thân ta chốn đó đang tâm nghĩ,
                     Ai dám cầm dao cắt thịt mình.
                     Xưa nay trong một bát canh,
                     Oán sâu như bể hận thành non cao,
                     Muốn hay nguồn gốc binh đao,
                     Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh”.

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2013

THIỀN

(trích nguồn: báo xuân Viên Giác số 138)
Bác sĩ Nguyễn Xuân Hạnh

Thiền là pháp môn luyện tập mà hiện nay đang thịnh hành trên khắp thế giới.

Ngày xưa khi nói đến Thiền người ta thường nghĩ đó là pháp môn tu dành riêng cho giới tu sĩ Phật Giáo hay những người tu tịnh theo Ðạo học Lão Trang (tu Tiên) ở Á Ðông. Nhưng ngày nay Thiền đã lan rộng ngoài phạm vi tôn giáo. Nhiều Thiền đường đã được dựng lên tại nhiều nước Âu, Mỹ... Có một số người theo các tôn giáo khác hoặc không tôn giáo cũng áp dụng Thiền. Cho nên có thể nói Thiền là vấn đề phổ quát trong đại chúng ở hậu bán thế kỷ 20 nầy.

Tại sao Thiền có tầm phổ quát như vậy? Thực hành Thiền đem lại kết quả gì mà hiện nay có nhiều người áp dụng.

Chúng tôi trình bày sơ lược về vấn đề Thiền. Dĩ nhiên với một bài ngắn gọn nầy không làm sao diễn tả hết ý của Thiền vốn mênh mông rộng lớn như biển cả, như lá của rừng già... Tuy nhiên tôi cố gắng trình bày một cách khái quát căn bản về Thiền. Nhất là ngày nay người ta cho rằng Thiền là phương thuốc mầu nhiệm có khả năng cứu chữa hoặc xoa dịu cơn khủng hoảng tinh thần của con người trong sự biến động của nền văn minh vật chất vượt cao đến tột đỉnh.


I.- NGUỒN GỐC
Theo tự điển Hán Việt, chữ Thiền là phiên âm chữ DHYANA của tiếng Phạn có nghĩa là Ðịnh Niệm.

Dhyana là giai đoạn thứ 7 trong 8 giai đoạn căn bản tu luyện của khoa Yoga. Tám giai đoạn như sau:

1. Yama (Không thoá mạ, không tham vọng, không tội lỗi.
2. Niyana (Thân thể trong sạch).
3. Asana (Ngồi tập đầu vế ngay ngắn để xương sống thoải mái).
4. Prama yana (Tinh thần nội hướng, phản tĩnh thân thể).
5. Pratyahara (Ðiều ngự hơi thở để kiểm soát sinh lực).
6. Dharona (Tập trung tinh thần).
7. Dhyana (Ðịnh niệm).
8. Samadhi (Giác ngộ).

Như vậy Thiền được xem như phát xuất từ môn phái Yoga của đạo Bà La Môn ở Ấn Ðộ hơn một ngàn năm trước Tây lịch. Vào thời đó Thiền là một trong những pháp môn tu của đạo sĩ Bà La Môn chưa được phổ biến sâu rộng. Ðến khi Ðức Phật Thích Ca ra đời, xuất gia hành đạo thì Ngài áp dụng Thiền một cách triệt để. Ngài cho rằng Thiền là pháp môn tu quan trọng để đưa con người đến chứng ngộ đạt đạo.

Sau khi chứng ngộ dưới cội Bồ Ðề, Ngài quan sát cõi hồng trần Ðức Phật đã thốt lên: "Thật là kỳ diệu thay tất cả mọi chúng sinh điều có Phật tính, nhưng vì bị vô minh che lấp nên họ không nhận ra điều ấy". Lời tuyên bố đầu tiên của Ðức Phật chính là tinh yếu toàn bộ giáo lý của Ngài. Ðúng như thế, mọi chúng sinh dù nam hay nữ, dù đẹp hay xấu, dù đau yếu hay khỏe mạnh, dù giàu sang hay nghèo khó... đều có Phật tính như nhau. Trải qua bao nhiêu kiếp sống luân hồi, tâm thức của chúng sinh bị cái lớp vỏ cứng của vô minh bao phủ nên không thể nhận thức được cái Phật tính vốn toàn vẹn trong sạch hoàn hảo kia nữa. Muốn giải thoát con người phải quay về cái Phật tính đó để thấy rõ rằng đã bao lâu nay chúng ta để cho cái vô minh lôi cuốn mà không hề hay biết. Phương pháp hữu hiệu nhứt để trở về với cái Phật tính thanh tịnh đó là Tọa Thiền. Lịch sử Phật giáo đã chứng minh một cách hùng hồn rằng từ Ðức Phật đến các đệ tử của Ngài và các vị Tổ về sau đều giác ngộ là nhờ công phu Tọa Thiền. Tâm của Phật và tâm của chúng sinh thật ra không hề khác nhau. Cái tâm nầy có thể ví như mặt nước hồ, tâm Phật như mặt nước yên tĩnh trên đó mặt trăng chân lý có thể phản chiếu một cách toàn vẹn, trong khi tâm của chúng sinh giống như mặt nước bị những làn sóng vô minh khuấy động nên không phản chiếu gì được. Mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng, do đó vấn đề tu tập là làm sao cho tâm của mình có thể phản chiếu một cách rõ ràng mặt trăng chân lý mà thôi. Bây giờ chúng ta tự hỏi cái gì đã làm cho tâm chúng ta khuấy động? Phải chăng đó là những bản ngã hẹp hòi, thành kiến cố định, những cuộc sống nông cạn, và đã trải qua bao nhiêu kiếp sống vô ý thức, vọng niệm đã trở thành một thói quen không dễ gì bỏ ngay được.

Ðức Phật cũng dạy rằng tất cả tư tưởng dù thanh cao hay xấu xa đều có khởi đầu và chấm dứt, nhưng vì nó cứ tiếp tục nổi lên mãi nên ta tưởng rằng nó thường hằng. Nếu những tư tưởng nầy cứ tiếp tục khuấy động tâm chúng ta thì chúng ta không phân biệt được cái thực cái hư. Con người thường đánh giá cao các tư tưởng trừu tượng, các phân biệt của lý trí và lý luận. Nhưng tất cả những cái nầy đều là sản phẩm của tư tưởng, mà đã là sản phẩm của tư tưởng thì vốn vô thường có sinh thì ắc có diệt thì gốc rễ của nó đã nằm ở chỗ vô minh.

Thiền là phương pháp làm ngưng lại và Thiền là phương pháp làm ngưng lại và dứt đi những tư tưởng nầy, một khi các làn sóng tư tưởng khuấy động dứt tuyệt đi thì chúng sẽ thấy mặt trăng chân lý lúc nào cũng chiếu sáng, giây phút nhận ra điều nầy tức là kiến tính tức là giác ngộ, tức là hiểu rõ chân thật của tự tánh, khác với những ý niệm lý luận hay triết học vốn phát xuất từ tư tưởng nghĩa là có khởi đầu và có chấm dứt và có thể thay đổi theo thời gian. Sự chứng ngộ với các làn sóng tư tưởng chấm dứt nầy không thay đổi hay có thể mất được nó sẽ ở mãi mãi với chúng ta, từ đó chúng ta có thể sống một cách thoải mái, bình an trong cái tâm đầy phúc lạc thanh thản đó. Do tầm quan trọng của Thiền mà sau khi trở lại thế gian hoằng pháp lúc nào Ðức Phật cũng khuyên chư tăng nên siêng năng Tọa Thiền. Ngài nói: "Có Thiền trí huệ sinh, không Thiền trí huệ diệt" và Thiền là 1 trong 6 pháp môn tu quan trọng của Phật giáo gọi là pháp tu Lục Ðộ hay còn gọi là 6 phép tu Ba La Mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Trí huệ, và Thiền định.

Sau khi Ðức Phật tịch diệt, các môn đệ của Ngài vẫn áp dụng Thiền một cách triệt để. Từ đó Thiền được thịnh hành trong Phật giáo và bắt đầu lan ra trong đại chúng. Ðến thế kỷ thứ 6 Thiền được truyền từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc do Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma vào năm 528. Bồ Ðề Ðạt Ma xem như là vị Sơ Tổ khai sáng Thiền Trung Quốc, kế đến là Huệ Khả, Tăng Xán, Ðạo Tín, Hoằng Nhẫn, và Huệ Năng... Thiền bắt đầu phong phú và đa dạng về sau càng rực rỡ hưng thịnh, lập thành những tông phái như Tào Ðộng, Vân Môn, Pháp Nhãn, Lâm Tế, Qui Ngưỡng...

Việt Nam tiếp nhận Thiền rất sớm, vào thế kỷ thứ 7. Vị Tổ đầu tiên tên là Tì Ni Ða Lưu Chi (Vinitaruci) người Ấn Ðộ. Năm 580 Ngài đến Việt Nam trụ trì ở chùa Pháp Vân tỉnh Hà Ðông. Từ đó Thiền được khai mở qua các đời Tổ như Pháp Hiền, Thanh Biện, Ðịnh Không... Ðến đời Vạn Hạnh Thiền Sư (năm 1.000) thì Thiền được thịnh hành và rực rỡ. Sau đó có nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng như Thiền Lão thuộc phái Vô Ngôn Thông, kế đến là phái Thảo Ðường. Thảo Ðường là vị Thiền Sư nổi tiếng không khác gì Lục Tổ Huệ Năng ở Trung Quốc. Sau đó là các vị Thiền Sư nổi tiếng như Viên Chiếu, Thường Chiếu... Ðặc biệt vào đời Nhà Trần, Thiền càng rực rỡ hơn. Các vị vua Nhà Trần có truyền thống tu hành rất tinh tấn. Vua Trần Nhân Tôn là vị Thiền Sư khai sáng phái Trúc Lâm. Việt Nam có nhiều phái Thiền không kém gì Trung Quốc như Thảo Ðường, Trúc Lâm, Tào Ðộng, Lân Giác, Lâm Tế, Liễu Quán... mà hiện nay còn thịnh hành trong đại chúng.

Thiền vào Nhật Bản sau Việt Nam gần 7 thế kỷ. Nhưng Thiền (Zen) ở Nhật Bản phát triển hết sức rực rỡ nó trở thành sắc thái đặc thù của dân tộc Nhật.

Ngày nay Thiền được phổ biến sâu rộng trên thế giới. Thiền được xem như kết hợp giữa Thiền của Phật Giáo và phương pháp Yoga. Người Âu Mỹ quan niệm Thiền như môn thể dục tâm sinh lý.

II.- QUAN NIỆM VỀ THIỀN
Có một số người ca ngợi Thiền như một cụ già, càng già càng đẹp và bất hoại với thời gian. Câu ví von ấy có phần chí lý. Vì Thiền đã có hơn 25 thế kỷ, với thời gian rất dài như thế mà ngày nay vẫn còn giá trị. Cái đẹp ở đây là Thiền ngày càng phong phú, càng rực rỡ, càng phát triển đa dạng và ngày nay đã lan rộng trên khắp thế giới, được nhiều người thực hành áp dụng.

Nhưng người ta cũng lắm tô vẽ Thiền, biến Thiền thành một thần bí, huyên náo. Thiền được tô vẽ đủ mọi sắc thái, nhất là khi Tổ Ðạt Ma từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc khai sáng phái Thiền Tông tại xứ nầy. Ngài trụ ở chùa Thiếu Lâm và dạy các môn đệ vận công phu luyện tập và đã đạt được những thành tựu của thần lực, công lực... Rồi người ta tô vẽ Thiếu Lâm Tự thành một môn phái với nhiều sắc thái kỳ bí. Ví dụ như Tổ Ðạt Mạ ngồi 9 năm quay mặt vào vách đá núi Tung Sơn (Cửu niên diện bích) họ biến thành những chuyện thần bí hoang đường. Nhất là sau nầy sự ra đời tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Thiền được tô vẽ thêm biến thành những môn phái chưởng quản khắp chốn giang hồ, những anh hùng hào kiệt bốn phương? muốn trở thành giáo chủ ít ra phải thọ giáo với một môn phái nào đó, phải dày công tu luyện để đạt dến đỉnh cao của thần lực, công lực, hoặc có thể thấu thị mọi chuyện quá khứ vị lai...

Cũng có một số người tu Thiền, hành Thiền rồi bị tẩu hỏa nhập ma... cho nên người ta lại e dè với Thiền, sợ tu không đúng phương pháp sẽ bị tai hại. Ðiều nầy cũng có phần đúng, đó là quan niệm về Thiền do vọng tưởng quá độ.

Thật ra Thiền không phức tạp, không huyên náo như thế. Thiền cũng không thần bí mộng mị. Nếu hiểu Thiền một cách rốt ráo thì Thiền hết sức đơn giản. Hành Thiền cốt đem lại sự thanh thản của tâm hồn, an nhiên tự tại, có thế thôi. Thiền sư Suzuki nói: "Thiền là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh để đưa con người? từ phiền trược đến an vui giải thoát". Nhưng hành Thiền để đạt tới sự an lạc thanh thản tâm hồn phải qua một quá trình tu tập cũng không phải đơn giản.

III.- CÁC PHƯƠNG PHÁP THIỀN

Khi đề cập đến phương pháp Thiền? là phải đề cập đến hai vấn đề Thân và Tâm.

1.- Về Thân: 
Khi nói đến Thiền thì đa phần người ta nghĩ ngay đến tọa Thiền, nghĩa là ngồi Thiền. Thật vậy ngày xưa Ðức Phật Thích Ca ngồi dưới cội Bồ Ðề 49 ngày và Ngài đắc đạo tại đây. Ngài luôn luôn dùng tư thế ngồi. Ngài thường khuyên chư tăng nên siêng năng ngồi Thiền. Ngài áp dụng lối ngồi kiết già hay còn gọi là ngồi hoa sen, nghĩa là ngồi xếp bằng hai chân tréo lại lật ngửa hai bàn chân lên. Lối ngồi nầy rất đau chân cho những ai mới tập. Khoa Yoga chủ trương áp dụng lối ngồi nầy, họ cho rằng không ngồi kiết già được là không thể tập Yoga được.

Theo Phật Giáo, ngồi kiết già sẽ phát ra tướng lộ trang nghiêm, người nhìn thấy sẽ phát lòng kỉnh tâm. Ngồi là tư thế yên ổn nhất, vững chắc nhất. Bài chú nguyện trước khi ngồi kiết già: "Kiết già phu tọa đương nguyện chúng sinh, Bồ Ðề kiên cố, bất đắc động địa...".

Qua các đời Tổ sau nầy cũng áp dụng lối tọaThiền. Tổ Ðạt Ma cũng chủ trương ngồi. Ngài đã ngồi quay mặt vào vách đá núi Tung Sơn 9 năm liền. Trong Thiên Thai Chỉ Quán có nói: "Ði đứng tâm dậy khó trừ, nằm thì hôn trầm khó diệt. Một trong tứ oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Ngồi được xem là phương pháp an ổn nhất, vững chắc nhất". Ngoài ra tông phái nầy cũng chủ trương ngồi kiết già để giao hòa âm dương trong thân thể để khai khiếu huyền quang làm cho các luân xa trong cơ thể khai mở.

Xem đó chúng ta thấy ngồi là tư thế căn bản của Thiền mà từ Ðức Phật cho đến các vị Tổ về sau đều chủ trương. Ngày nay người ta còn cho rằng ngồi là tư thế để cho xương sống thẳng đứng, biểu tượng cho sự thăng hoa tiến hóa, vì chỉ có con người mới có xương sống thẳng đứng. Học thuyết Tiến hóa của Darwin cũng có đề cập vấn đề nầy.

Nhưng đến đời Lục Tổ Huệ Năng và các vị Tổ về sau không chủ trương hành Thiền là nhứt thiết phải ngồi. Các Ngài cho rằng ngồi hay nằm chỉ là tư thế của thân, không phải cứu cánh của sự giải thoát. Muốn đạt đến đạo quả giải thoát phải dày công hành trì của tâm thức, còn tư thế nằm hay ngồi không quan trọng. Câu chuyện sau đây giữa Nam Nhạc và Mã Tổ:

Mã Tổ rất siêng năng ngồi Thiền. Một hôm Nam Nhạc hỏi Mã Tổ: Ngài ngồi để làm gì? Mã Tổ đáp: Ngồi để thành Phật. Một hôm Nam Nhạc đem cục gạch đến trước Mã Tổ đang ngồi Thiền mà mài cục gạch. Mã Tổ hỏi: Ngài mài cục gạch để làm gì? Nam Nhạc trả lời: Tôi mài gạch để làm gương. Mã Tổ ngạc nhiên nói: Làm sao mài gạch mà làm thành gương được. Nam Nhạc bèn nói: Tôi mài gạch không thể thành gương được, cũng như Ngài ngồi Thiền cũng không thể thành Phật được. Thành Phật hay không là do cái tâm. Cũng như có chiếc xe trâu kia không chạy, muốn chiếc xe chạy Ngài nên đánh con trâu hay đánh cái xe? Mã Tổ nghe đến đây bỗng nhiên giác ngộ.

Như vậy kể từ Lục Tổ Huệ Năng về sau không chủ trương Thiền nhứt thiết là phải ngồi mà Thiền trong tứ oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi. Tư thế nào cũng có thể đều Thiền được hết.

Ngày nay Thiền được phổ biến trong đại chúng. Thiền được áp dụng nhiều tư thế: Hoặc ngồi kiết già, hoặc ngồi bán già, hoặc ngồi thòng hai chân, miễn trong tư thế thoải mái không câu thúc khó chịu. Nhưng đa phần trong các Chùa, Tu viện, Thiền viện ngày nay người ta vẫn áp dụng lối ngồi kiết già khi tọa Thiền. Nhưng dù trong tư thế nào khi ngồi Thiền thân thể cũng phải trang nghiêm. Ðiều quan trọng là làm sao cái tâm được an tịnh. Ðó mới chính là cốt tủy của Thiền.



2.- Về Tâm

Như trên đã trình bày Thiền được phiên âm từ chữ Dhyana có nghĩa là Ðịnh Niệm. Thiền là phương pháp làm ngưng lại những tư tưởng khuấy động để tâm thức được an tĩnh. Thiền có nhiều pháp môn để rèn tâm tùy theo các tông phái. Ví dụ như Tịnh Ðộ Tông áp dụng niệm Phật, Bắc Tông dùng trì chú, tụng kinh, Nam Tông dùng hơi thở, tâm quán... Niệm Phật, trì chú, tụng kinh, lần chuỗi, tâm quán... đều có mục đích là câu thúc cái tâm định lại một chỗ không cho nó tự do phóng túng nữa.

Ðịnh niệm là gì? Niệm là dòng suy tưởng do tâm thức sinh ra, dòng suy tưởng nầy vô cùng phức tạp biến hóa không ngừng, chỉ trong một giây tíc tắc ý tưởng có thể từ đông sang tây xa cách muôn vạn dặm, đang nhớ người thân bên Mỹ liền sang Úc... Ðang ở hiện tại bỗng nhớ về quá khứ hàng mấy mươi năm, đang thương bỗng ghét liền sau đó. Cùng một sự việc nhưng sự nhận xét phán đoán tùy tâm hỉ, nộ, ái, ố khác nhau. Dòng tâm thức nếu không chế ngự thì nó luôn biến động không ngừng nghỉ, tâm ý như con vượn, con ngựa cứ lăng xăng không ngừng nghỉ. Nhà Phật nói: Tâm viên, ý mã là vậy.

Tóm lại ý niệm con người thiên hình vạn trạng nó luôn luôn nương theo lục căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý và lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp kích động tâm thức sinh tình thương ghét, buồn vui... làm cho tâm lúc nào cũng điên đảo quay cuồng theo sắc, tướng, âm thinh... nên che lấp sự sáng suốt mà Ðức Phật gọi là vô minh. Nghĩa là tâm cứ chạy theo vật, theo cảnh mà quên mình và không thấy được chính mình. Cho nên niệm Phật, trì chú, lần chuỗi, trì kinh... có mục đích là kềm cái tâm lại một chỗ mà không nghĩ tới những chuyện khác, các phương pháp nầy rất tốt, nhưng có điều bất lợi là khi xả Thiền rồi thì tâm lại tiếp tục lăng xăng. Ðây không phải là lối Thiền của những bậc Tổ. Các Ngài chủ trương không nên câu thúc cái tâm một cách tuyệt đối, các Ngài khuyên: Ý niệm đến tâm thức con người cứ để nó tự nhiên, nó đến và đi một cách thong thả. Ví như con nhạn bay qua dòng suối, thì ảnh của nó tự nhiên in dưới đáy nước, muốn cưỡng ép thế nào để cho ảnh của nó không hiện dưới đáy nước cũng không được, và khi nó bay qua rồi muốn lưu giữ hình ảnh của nó mãi cũng không được.

Nếu tâm chúng ta cứ câu thúc một chỗ thành thử tu Thiền ta lại sa vào một ràng buộc khác, như người giàu canh giữ kẻ trộm đêm nào cũng canh giữ, ngày cũng canh giữ, đêm cũng canh giữ, người ấy dần dần sẽ mòn mỏi chết đi. Người tu Thiền không nên câu thúc cái tâm như người giàu canh kẻ trộm mà nên câu thúc khi nó vọng tưởng sinh tình. Ðức Phật có khuyên: "Không nên chế ngự ý ở mỗi thời mà nên chế ngự ý khi tham sân si".

Cũng có một số người tu Thiền được một thời gian đạt được những kết quả như tâm được an tĩnh... Rồi họ bỗng nghe được những âm thanh kỳ diệu, hoặc có thể xuất hồn vân du đó đây hoặc đến Bồng lai Tiên cảnh được các Tiên trưởng ấn chứng. Hoặc họ hưởng được mùi hương lạ, họ lại cho ràng họ đã chứng ngộ được đạo. Ðó là những vọng niệm dấy lên mà trong Nhà Phật gọi là ma cảnh. Ma cảnh là những hiện tượng không có thực, đó là những ảo tưởng. Ma cảnh có thể khuấy động chúng ta nhiều cách như lòng mong muốn mau đạt kết quả, mau chứng ngộ, hoặc mong đạt đến những trạng thái thần lực, công lực... Tất cả đều là vọng động sai lệch mục đích của Thiền.

Thân và tâm có liên quan mật thiết với nhau, một cái đau đớn của thân thì tâm không làm sao an vui thoải mái được, ngược lại một sự khủng hoảng của tâm thì thân không làm sao bình an được. Cho nên áp dụng thực hành Thiền là mục đích điều tức cả hai thân và tâm được an vui thoải mái. Vì thế khi ngồi Thiền? không nên câu thúc cái thân đau đớn khó chịu, mà ngồi trong tư thế thoải mái bình an và tâm yên lặng, không để cho bất cứ một vọng niệm nào khuấy động dù ý niệm đó có thiện lành đi chăng nữa. Nhưng khi Thiền đã đạt đến trình độ cao thì tâm không vướng mắc vào thân nữa. Bằng chứng có những vị Thiền sư? già nua đau bệnh mà không cảm thấy khó chịu, lúc nào cũng ung dung tự tại. Họ có thể thích nghi mọi tình huống, biến nghịch cảnh thành thuận cảnh, biến đau khổ thành an vui. Tâm không trói buộc vào một định chế nào.

Trong cuộc sống ngày nay, khi nền văn minh vật chất ngày càng vượt bực, cuộc sống của con người cũng bị biến động theo. Cuộc sống ngày nay không còn đơn giản như ngày xưa nữa. Cách đây 40 năm người ta có thể sống trong một mái lá đơn sơ, bên cạnh liếp rau, ao cá, người ta có thể sống một cuộc đời bình an thanh thản, không lo âu phiền muộn... Ngược lại cuộc sống ngày nay vô cùng phức tạp, đòi hỏi nhiều nhu cầu, và vì phải chạy theo những nhu cầu đó làm cho con người luôn luôn quay cuồng theo vật chất, theo nếp sống văn minh, rồi sinh ra đủ thứ phiền não. Ra đường thì kẹt xe hàng chục cây số, đi làm thì hối hả sợ bị trễ giờ, trong sở làm thì cũng lắm phức tạp, sợ bị sa thải, sợ bị thất nghiệp, sợ đồng nghiệp ganh tị, sợ ông chủ buồn lòng, ở gia đình thì con cái đua đòi, sống bê tha, vợ chồng hục hặc vì đồng lương kém cỏi. Ấy là chưa kể những nỗi khổ do nội tâm, lo âu những việc chưa đến, sầu khổ và nuối tiếc những việc đã qua. Xét cho cùng thì đời đâu có gì là hạnh phúc, nếu có thì cũng chỉ là giây phút ngắn ngủi mà thôi. Tất cả mọi người trên thế gian nầy ai cũng có cái khổ riêng, người nghèo có cái khổ của người nghèo, người giàu sang quyền quí có cái khổ của người cao sang quyền quí. Ðâu có ai ngờ Hoàng gia Anh bên trong cũng lắm điều rối rắm. Cho nên Ðức Phật mới than rằng: "Ðời là bể khổ mênh mông, nước mắt của chúng sinh nếu cộng lại sẽ nhiều hơn bốn đại dương bát ngát". Trong hoàn cảnh như thế ta có thể nào làm thay đổi cục diện được không. Rất khó, làm sao giải quyết được nạn kẹt xe, làm sao tìm sở làm cho hợp ý mình... Vậy thì chỉ còn phương pháp duy nhất là thay đổi cái tâm của ta. Ðó là phương pháp Thiền, áp dụng Thiền. 

Thiền giúp ta thích nghi mọi hoàn cảnh, tùy thuận mọi tình huống. Sự tri túc sẽ đem đến cho ta những điều lợi lạc vô cùng. Ta cố gắng tránh? những cám dỗ của vật chất, hoặc đua đòi. Ta nhận thức rằng cám dỗ luôn luôn làm khổ cho ta. Thiền giúp cho ta lắng đọng ưu tư phiền não, khi tâm thức lắng đọng dần dần sẽ đạt đến trạng thái an tĩnh? buông xả hoàn toàn. Buông xả nghĩa là không chứa chấp những gì trong tâm ta. Tâm lúc nào cũng rỗng không trong Ðạo học gọi là "Tâm Hư" không chấp thương, không chấp ghét, không chấp xấu, tốt, khen, chê... Không có gì khuấy động được tâm, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy an tĩnh nhẹ nhàng, ta sẽ cảm nhận được cái đẹp của tạo hóa, một đóa hoa đơn sơ cũng làm cho ta có cảm giác tuyệt vời, ăn một ngọn rau cũng thấy hương vị ngọt ngon của Trời Ðất. Ðức Khổng Tử có lẽ đã cảm nhận được điều dó nên Ngài nói: "Tâm an mao ốc ổn, tánh định thể căn hương" (Khi tâm an thì ở nhà tranh vách đất cũng thấy vui, tánh định ăn ngọn rau cũng thấy hương vị ngọt ngon của Trời Ðất).

III.- ÍCH LỢI CỦA THIỀN
Theo Ðạo học thì Trời Ðất là một Ðại Thiên Ðịa, con người là một Tiểu Thiên Ðịa. Cơ thể con người rất mầu nhiệm, nếu biết khai thác và luyện tập thì sẽ đạt đến những trạng thái lạ thường, các Ðạo sĩ Yoga đã làm điều đó, và ngày nay khoa học cũng đã chứng minh và xác nhận điều đó. Ðạo sĩ Vivekananda nói người tu Thiền có thể khai thông được nguồn sinh lực mới đầy năng động vẫn tiềm ẩn trong mỗi con người chứng ta. Hệ thống sinh lực nầy gồm có 7 trung tâm chứa đựng đầy tính lực của vũ trụ. Với người thường hệ thống nầy bị bế tắc, nhưng người tu Thiền có thể được khai thông một cách dễ dàng nếu được vị Thiền Sư có kinh nghiệm chỉ dẫn.

1/ Trung tâm thứ nhứt nằm dưới chót xương sống (Theo Vivekananda, đó là nơi trú ngụ của con rắn lửa, người Tàu dịch là Hỏa Tam Muội)
2/ Trung tâm thứ nhì nằm cuối bụng dưới.
3/ Trung tâm thứ ba nằm sau rốn.
4/ Trung tâm thứ tư nằm chỗ quả tim.
5/ Trung tâm thứ năm nằm dưới yết hầu.
6/ Trung tâm thứ sáu nằm giữa hai chân mày.
7/ Trung tâm thứ bảy nằm giữa đỉnh đầu.

Khi trung tâm thứ nhứt được khai thông, luồng lửa Tam Muội sẽ lan đến trung tâm kế tiếp, khi lan đến đâu thì nó nóng ran đến đó. Việc thực hành lửa Tam Muội đã được khoa học trắc nghiệm. Năm 1979 khi Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đến Hoa Kỳ. Bác sĩ Herbert Khoa trưởng Phân khoa Y học hành xử thuộc Ðại học Harvard Hoa Kỳ xin được nghiên cứu về trạng thái sinh lý của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma. Với nhiều dụng cụ y khoa tối tân, Bác sĩ Herbert đo ngoài da lẫn trong hậu môn? nhiệt độ gia tăng nầy có thể làm khô tấm vải nhúng nước lạnh quấn quanh vị Ðại sư đang ngồi Thiền dưới 0 độ C, ngay cả ngồi trên tuyết suốt đêm, thân nhiệt vẫn không thay đổi. Ngoài ra số lượng khí hít vào phổi giảm đến mức tối thiểu, chỉ thở độ 7 lần trong một phút trong khi người thường thở 16 lần trong một phút.

Trong những năm gần đây hai ngành y học và khoa học đã nghiên cứu về Thiền rất nhiều. Ðặc biệt là công trình nghiên cứu của Bác sĩ Hirai, Kasamattsu và Ikemi thuộc Ðại Học Tokyo và Bác sĩ Herbert Ðại Học Harvard Hoa Kỳ họ đã tập trung nghiên cứu về Thiền, và gần đây Bác sĩ Liu Gui Zen Viện Khí Công Trị Liệu Trung Quốc đã chứng nghiệm trên 250 Thiền giả, kết quả thật bất ngờ ngoài sự tưởng tượng. Họ đi đến kết luận: Thiền có thể giúp trị được những chứng bệnh sau đây:



* Hệ tiêu hóa:

- Loét dạ dày và ruột non.
- Táo bón kinh niên
- Ăn uống chậm tiêu.

* Hệ Hô hấp:

- Bệnh viên phế quản kinh niên.
- Bệnh khó thở, suyễn.
- Sổ mũi mùa.

* Hệ Thần kinh:

- Suy nhược thần kinh.
- Bệnh tâm thể.
- Bệnh mất ngủ.
- Chứng ưu tư.
- Ðau nhức thần kinh.
- Loạn tâm thần ám ảnh.

* Hệ tim mạch:

- Áp huyết cao.
- Phong thấp các van tim (Rhumatisme valvulaire cardiaque)
- Nhồi máu cơ tim.
- Bệnh chóng mặt
- Teo thần kinh thị giác (Atrophic optique)
- Bệnh huyết kết tĩnh mạch.

Ngoài ra Thiền còn giúp tăng cường sức đề kháng, ít bệnh tật, tăng tuổi thọ.

Hai Trường Ðại Học Tokyo và Harvard đã làm một tổng luận và kết luận như sau:

Thiền là phương pháp mà người thực hành nhằm vận dụng khai thác tiềm năng sẵn có trong mỗi cơ thể con người. Tiềm năng nầy ẩn tiềm trong cơ thể thật là vô biên. Sau khi hành thiền một thời gian cơ thể thay đổi một cách rõ rệt. Thiền đưa đến kết quả như sau:

* Làm nhịp tim chậm lại: Áp suất máu giảm một cách rõ rệt.

* Làm hô hấp chậm lại, nhịp thở của người bình thường 16 nhịp trong 1 phút, người hành thiền sẽ chậm lại từ 5 đến 7 nhịp trong 1 phút. Khi nhịp thở chậm lại sẽ làm giảm tiêu thụ khí oxy. Ðây là điều quan trọng để đo lường sự thư giãn. Khi Thiền sự tiêu thụ oxy còn thấp hơn khi ngủ. Vì thế Thiền là một sự thư giãn hoàn toàn. Người ta kết luận khi Thiền cơ thể khỏe, sảng khoái còn hơn một giấc ngủ say. Những người Thiền đến trình độ cao sự tiêu thụ oxy đến mức tối thiểu. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ tại sao có nhiều Ðạo sĩ Yoga Ấn Ðộ giam mình trong hòm kín cả tháng trời mà không chết ngộp.

* Thiền làm cho lượng glucose trong máu giảm rõ rệt. Theo y học khi hoạt động trên mức độ bình thường thì đòi hỏi một lượng glucose tăng gấp 3 lần, nếu thiếu glucose não sẽ bị tê liệt không hoạt động. Ðiều nầy ta thường thấy những người bị chứng hạ đường huyết (hypoglycemie), lúc ấy tri thức của họ lơ mơ. Ngược lại người hành Thiền lượng glucose trong máu giảm nhưng họ rất tỉnh táo.

* Hành Thiền sẽ gia tăng sức chịu đựng của lớp bì phu, điều nầy được thể hiện qua các nhà sư, Ðạo sĩ Yoga ngồi Thiền ngoài trời nhiệt độ 0 độ C mà không thấy lạnh, hoặc những vị có trình độ cao có thể đi trên lửa mà không thấy nóng hay ngồi trên bàn chông mà không thấy đau.

Tóm lại Thiền giúp con người cả hai lãnh vực Tâm bệnh và Thân bệnh. Về thân bệnh như vừa đề cập về tâm bệnh thì chế ngự được ưu tư, phiền não, tâm trí an vui thanh tịnh và khi thân tâm an vui thì chúng ta sẽ minh tâm kiến tánh. Ðó là bí quyết của sự sống mà người xưa cho rằng: "Khướt bệnh diên niên, Bảo trung thủ thất"./.

-hết-

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

MẸ HIỀN CON HIẾU tập 2

Các vị thầy cô giáo, các vị bằng hữu, kính chào quý vị!
Hôm qua chúng tôi đã bắt đầu trình bày với quý vị về bài báo cáo những vấn đề tâm đắc của việc giáo trong dục gia đình. Chúng tôi đã chuẩn bị bài báo cáo gồm bảy phương diện để trình bày với quý vị. Bảy phương diện này bao gồm:
1. Vị thầy của giáo dục trong gia đình
-         Trách nhiệm người mẹ là số một.
2. Điểm khởi đầu của giáo dục trong gia đình
-         Bắt đầu từ thai giáo.
3. Căn bản của giáo dục trong gia đình
-         Hiếu là căn bản của đạo đức.
4. Nội hàm của giáo dục trong gia đình
-         Là giáo dục tố chất.
5. Vấn đề hàng đầu của giáo dục trong gia đình
-         Là tiếp thu gồm cả giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền.
6. Thăng hoa của giáo dục trong gia đình
-         Là thúc đẩy con cái vì một thế giới hài hòa mà lập đức, lập công, lập ngôn.
7.  Nguyên lý của giáo dục trong gia đình
-         Cảm ngộ của 30 nuôi năm dạy con cái.
Hôm qua chúng ta đã bàn đến nội dung thứ tư, nội hàm giáo dục gia đình - giáo dục tố chất. Sau đây chúng tôi xin tiếp tục trình bày với mọi người. Hôm qua có nói đến, chúng ta không thể dùng tiền bạc và vật chất để mà đo lượng tình thân và lòng hiếu thảo. Người xưa nói: “Vàng thì có giá, tình thì vô giá”.
Con (Giáo sư): Khi tôi du học ở Mỹ, có rất nhiều bạn học nói với tôi rằng: “Bạn thường đem tiền gửi về phụng dưỡng cha mẹ, gọi điện về cho gia đình mà mỗi năm còn về thăm nhà, nếu số tiền này đem gom lại thì có thể mua một chiếc xe hơi”. Nhưng mà tôi vẫn chỉ đạp chiếc xe đạp của mình. Ngày 25 tháng 04 năm 1996, khi đang học ở Mỹ, mẹ tôi đã gửi cho tôi một bức thư, trong đó viết:
“Duy trì sự liên lạc với quê nhà, cách làm này là trong tâm có đạo, là tấm lòng phụng dưỡng mẹ. Người xưa tế tự rất là long trọng. Học trò của đức Khổng Tử nói rằng: “Nên phế bỏ những vật phẩm cúng tế ấy bởi vì lãng phí tiền bạc”. Nhưng mà đức Khổng Tử đáp rằng: “Con quí trọng tiền bạc, ta lại càng quí trọng cái lễ nghĩa này. Lễ nghĩa mà được nối tiếp tương tục thì lòng dân sẽ thuần hậu”. Con trai này! Cách làm của con đã có được cái phong thái và khuôn mẫu của người xưa, mẹ rất hài lòng”.
Nhưng mà bản thân tôi cũng rất là hổ thẹn, suy nghĩ lại và tự kiểm điểm chính mình vì thường làm rất nhiều việc khiến mẹ tôi không vừa ý, không hài lòng. Như là tôi nhớ lại khi lần đầu tiên trở về thăm nhà trong thời gian du học ở Mỹ, lúc đó tôi mua rất nhiều quà, chuẩn bị khi trở về biếu cha mẹ và bà con. Nghĩ rằng tóc của mình cũng dài dài rồi. Ở Mỹ một lần cắt tóc ít nhất cũng hết 12 Đô la nhưng về nước cắt chỉ hết khoảng mười Nhân Dân Tệ thôi, thế là trong lòng bắt đầu tính là nếu về nước mà cắt thì sẽ dư được số tiền chênh lệch giá đó. Tôi học về ngành tài chính mà, cho nên trong lòng đã tính toán như thế. Và tóc của tôi đã dài ra. Sau đó thì với dáng vẻ phong trần mà từ Mỹ trở về nhà. Trên đường về phải qua ba lần chuyển máy bay. Từ trường tôi đến Dalas, từ Dalas đến Los Angeles, từ Los Angeles đến Hồng Kông, từ Hồng Kông ngồi xe một mạch về đến Quảng Châu. Khi về đến nhà thì trông thật là phong trần bụi bặm. Lúc tôi bước tới trước cửa nhà và gõ cửa, mẹ tôi đã ở nhà và chờ rất lâu, nghe tôi vừa gõ cửa đã vội vàng mở cửa. Tôi nhìn thấy mẹ thì ngay lập tức cúi thấp đầu nói: “Chào mẹ, con đã về”. Nhưng mà khi trông thấy mẹ từ đầu đến chân đều rất là chỉnh tề, rất gọn gàng và rất sạch sẽ, khiến lòng tôi cảm thấy rất là hổ thẹn. Mẹ cho tôi vào nhà, cũng đã pha trà sẵn chờ tôi về. Sau đó rất vui mừng mà nói với tôi : “Mao Sâm à! Hôm nay vì đợi con về mà hôm qua mẹ đã đi làm tóc”. Khi nghe mẹ vừa nói như vậy thì trong lòng tôi càng cảm thấy hết sức xấu hổ, tâm thái mình cùng với tâm thái của mẹ thật là không giống nhau. Bạn xem, mẹ đợi con trai trở về, muốn cho con trai nhìn thấy hình ảnh đẹp nhất của mình, vậy mà lòng tôi lại còn tính toán như vậy, cứ nghĩ rằng giá cả ở Mỹ thì cao còn ở Trung Quốc thì thấp. Đây là gì vậy? Đây chính là đem cái lợi đặt lên trên lòng hiếu thảo đối với mẹ mình, vậy thì làm sao được xem là hiếu chứ? Cho nên việc này làm cho tôi đến hôm nay vẫn còn cảm thấy rất hổ thẹn. Bây giờ mọi người cũng nhìn thấy xã hội có rất nhiều thanh niên, họ vì muốn đi gặp người bạn gái mà chải chuốt thật đẹp, nhưng mà nếu như đi gặp cha mẹ thì có cái tâm này không? Trong Hiếu Kinh, đức Khổng Tử nói rất hay: “Bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bội đức; Bất kính kỳ thân nhi kính tha nhân giả, vị chi bội lễ”. Chúng ta thử nghĩ, nếu như đối cha mẹ mà cũng không thể yêu thương thì người đó có thể yêu thương được ai chứ? Đối với cha mẹ mà họ không tôn kính thì người đó còn có thể kính trọng người khác không? Khổng Tử nói đó là trái lễ bội đức. Cho nên từ sau lần đó bản thân tôi mỗi lần đi gặp cha mẹ thì đều chăm chút lại vẻ bề ngoài của mình khiến cho cha mẹ khi nhìn thấy tôi đều sinh tâm hoan hỷ.
Mẹ (Cô giáo): Thời gian Mao Sâm còn du học ở Mỹ thì đã tám lần tổ chức buổi tọa đàm về hiếu đạo cho các du học sinh Trung Quốc. Cậu ấy đã đem những điều mà tự mình học được ở nhà là những lời giáo huấn có liên quan đến hiếu đạo trong kinh điển của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo chia sẻ với các bạn học. Trong mỗi lần tổ chức những hoạt động này, cậu ấy đều chủ động cung thức ăn, sắp xếp phòng hội nghị, cung cấp trà nước, khiến cho mọi người khi tụ họp lại đều rất vui. Mỗi lần có một bạn học Trung Quốc học thuộc kinh điển của những Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo có liên quan đến những giáo huấn về mặt hiếu đạo thì vô cùng cảm động. Khi các sinh viên đọc những điều này thì đều rơi nước mắt, mọi người đều cảm động, quyết định phải học thật tốt để khiến cha mẹ mình được an lòng. Vì tự hào của người Trung Quốc, cho nên họ đều phát nguyện sẽ tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, bày tỏ sự phấn chấn, hoàn thành việc học tập để tương lai phục vụ cho đất nước, đồng thời đều nhanh chóng gọi điện về quê hương để hỏi thăm cha mẹ đang ở quê nhà.
Trong thời gian Mao Sâm nghỉ hè thì cậu ấy đã đi đến Bắc Mỹ, bang Minesota làm việc trong một thành phố du lịch. Khi đó đi cùng với 9 người bạn Trung Quốc. Chín người họ chỉ thuê một căn nhà đơn giản. Tối ngủ trên nền nhà, vì không có bất kỳ vật dụng gia đình nào cả. Khi đó Mao Sâm làm kẹo bông gòn ở trong một ngôi nhà của một khu vui chơi trong thành phố. Đây là loại đồ ăn vặt rất được du khách và các trẻ nhỏ yêu thích. Kẹo bông gòn phải được làm ở trong một cái phòng rất kín, máy móc chạy rầm rầm nhưng du khách bên ngoài thì không nghe thấy. Làm kẹo bông gòn thì mỗi ngày phải làm việc từ mười tiếng đồng hồ trở lên, máy móc không ngừng chạy, chỉ khi đi vệ sinh mới có thể nghỉ ngơi một chút. Mỗi giờ thu được khoảng gần 7 Đô la. Mỗi ngày phải đứng mười tiếng đồng hồ. Khi đó cậu ấy làm thuê được gần ba tháng, thu nhập được hơn 3.000 đô la Mỹ. Cậu ấy lập tức gửi cho tôi 1.000 đô la. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được số tiền ngoại tệ lớn như vậy. Khi cậu ấy làm thuê, vào ngày 01 tháng 07 năm 1996, đã viết cho tôi một lá thư. Bức thư này khiến cho người ta rất là cảm động. Tôi xin được chia sẻ cùng mọi người.
“Mẹ kính yêu!
Chào mẹ! Vừa mới nhận được thư mẹ gửi vào ngày 23 tháng 06, con rất là vui mừng. Nhân dịp hôm nay là ngày được nghỉ làm, con đã ở trong một cái kiosk gần chỗ con ở mà viết thư hồi âm cho mẹ (vì trong chỗ ở không có bàn ghế nên không thể không đi ra ngoài để viết). Đây là một cái công viên bên cạnh nhà trọ của chúng con, khắp nơi đều là cây cối hoa cỏ rậm rạp tốt tươi, lại còn có rất nhiều loại chim nhiều màu sắc và trong lùm cỏ chui ra một con thỏ rừng, rất là u nhã tĩnh mịch. Trong một khung cảnh vừa có không khí dễ chịu vừa có hoa thơm, chim hót mà ngồi viết thư cho người mẹ ở phương xa, thật là có một cảm giác vui vẻ ấm áp không thể nói nên lời. Đối với con mà nói, không có ai giao lưu tâm đắc mà vui như mẹ cả.
Cuộc sống của con trong một tháng làm thuê này, điều cảm nhận đầu tiên là phước báu đến thật không dễ! Chúng con đi làm thì vào ca và tan ca đều quẹt thẻ để tính giờ, mỗi giờ đã định đều rất là chính xác, mỗi giờ thu nhập là 6,35 Đô la. Điều con cảm nhận thứ hai là thời gian là tiền bạc. Mỗi một giờ đồng hồ đã có một giá trị rất rõ ràng, cho nên mọi người đều hy vọng có được nhiều thời gian hơn 24 giờ mỗi ngày, để có thể dùng thời gian vào việc kiếm tiền. Nhưng không ai chịu góp một chút sức lực cho tập thể trong ký túc xá, kết quả là chính con phải thay mọi người làm những việc như là dọn bếp lò, rửa nhà vệ sinh, đi mua máy hút bụi, vệ sinh thảm trải sàn,…”.
Tôi nhận được lá thư này của con trai thì rất là vui mừng! Con trai trong công việc gian khổ mà còn có thể viết thư cho mẹ, sau khi làm việc suốt mười giờ đồng hồ vẫn còn có thể thay mọi người làm một chút việc, cho nên tôi cảm thấy rất là an ủi! Mạnh Tử nói: “Cái đạo của vua Nghiêu vua Thuấn là từ hiếu để mà thành”, mà cái đạo hiếu để là phải được thể hiện từng li từng tí trong cuộc sống hằng ngày. Đệ Tử Quy không phải chỉ để đọc thuộc, mà là phải chân thật áp dụng vào trong cuộc sống thực tiễn! Không những phải làm được trong hoàn cảnh thuận lợi, mà trong hoàn cảnh gian khổ cũng phải làm cho được!
Bà ngoại của Mao Sâm mất năm 1994. Trong thời gian thủ hiếu, mẹ con tôi bắt đầu ăn chay, cho đến sau khi kỷ niệm 49 ngày mất của bà thì chúng tôi đã quen ăn chay. Trong Đệ Tử Quy có viết: “Tang ba năm, thường thương nhớ, chỗ ở đổi, không rượu thịt”. Chúng tôi khi đó thật sự là có chút thể hội. Lúc đó Mao Sâm 21 tuổi, đến năm nay thì đã 34 tuổi, như vậy là kiên trì ăn chay đã được 13 năm rồi. Sức khỏe của mẹ con tôi đều rất tốt. Việc ăn chay đích thực có rất nhiều lợi ích. Ăn chay có thể ảnh hưởng đến sinh lý và tâm lý của con người. Nó ảnh hưởng đến tâm lý là khiến người có thể tăng trưởng lòng thiện lương, rộng rãi độ lượng và từ bi. Nó ảnh hưởng đến sinh lý là sau khi ăn chay cảm thấy thân thể khá là nhẹ nhàng, mà cũng không dễ bị hôn trầm. Chúng tôi nhìn thấy rất nhiều những người thường ăn thịt thì họ hay bị hôn trầm, hiệu suất làm việc cũng không cao, cho nên sau khi ăn chay chúng tôi cảm thấy hiệu suất học tập, hiệu suất làm việc và sức nhớ đều tăng lên. Khi đó Mao Sâm đang trong thời gian du học đã viết cho tôi một bức thư nói rằng: “Con mỗi ngày đều kiên trì ăn chay, chi phí mỗi tháng là 80 đô la Mỹ. Ăn uống cũng rất dinh dưỡng, sức lực dồi dào”.
Vậy ở Mỹ thường ăn những gì? Cậu ấy nói là thường ăn củ cải đỏ, bắp cải. Đây là loại rau dại tròn tròn mà người Quảng Đông chúng ta hay nói đến. Rồi cà chua, cơm, trái cây, v.v… Mỗi ngày đều thường ăn những thứ này, ăn đến nỗi sắc mặt cũng trở nên hồng hào luôn. Khi Mao Sâm từ Mỹ trở về thăm nhà, mọi người đều nói cậu ấy sức khỏe thật là tốt, ở Mỹ môi trường sống và thức ăn chắc tốt lắm. Thực tế là việc ăn chay đã khởi nên cái hiệu quả này. Sau này, chúng tôi xem đến những tài liệu có liên quan đến sức khỏe, chúng tôi mới thấy là những loại rau củ này đều có chứa rất nhiều dinh dưỡng. Củ cải đỏ có biệt hiệu là tiểu nhân sâm, đối với sức khỏe rất là tốt, còn bắp cải thì chúng ta gọi là rau dại thì rất là tốt đối với dạ dày và ruột. Ngoài ra cà chua lại là loại thực phẩm làm đẹp nữa, có hàm lượng vitamin C rất lớn. Đồng thời ở Mỹ trái cây cũng khá nhiều, dinh dưỡng của những loại này rất là phong phú, canxi, vi sinh tố các loại đều có. Trong thư Mao Sâm có nói với tôi rằng: “Ăn mặc không chải chuốt thì tâm không sinh ham muốn, ăn uống không cầu kỳ thì tâm không sinh tham luyến. Việc này áp dụng đối với Đệ Tử Quy ở chỗ:
“Với ăn uống, đừng chọn lựa;
nếu áo quần, nếu ăn uống,
không bằng người, không nên buồn”.
Điểm này có thể làm được một cách tương đối vui vẻ. Khi Mao Sâm đang du học ở Mỹ có thể nhẫn nại cách sống và học tập đơn điệu. Đơn điệu như thế nào? Cuộc sống của mỗi ngày là vận động theo hình tam giác. Từ ký túc xá đến thư viện, từ thư viện đến lớp học, là di chuyển theo cái hình tam giác này, cho nên cuộc sống rất là đơn thuần. Đệ Tử Quy có nói:
“Nơi ồn náo, chớ đến gần
Việc không đáng, tuyệt không hỏi”.
Trong cái hoàn cảnh như vậy thì tự nhiên cũng làm được cái điểm này. Khi Mao Sâm du học ở Mỹ, chúng tôi tổng kết được cậu ấy đã làm được “bảy không”. Đó là không xem ti vi, chiếu bóng, không dạo phố mua sắm, không kết giao bạn bè xâu, không phung phí tiền bạc, không để tóc dài, không mặc quần áo lố lăng, và không yêu đương. Chúng tôi cảm thấy vì con có thể giữ được bảy điều này trong cuộc sống cho nên có thể duy trì việc tự mình rất chuyên tâm mà học tập. Con sau này cũng nên kiên trì giữ bảy điều này. Như vậy đối với việc thực tiễn Đệ Tử Quy chỗ nói là:
“Phi sách thánh, không nên xem
Che thông minh, hư tâm trí”.
Đây cũng chân thật là làm được đến chỗ này. Mà cũng trong thời gian du học này Mao Sâm rất là trân quí thời gian, lúc đó thì trân quí thời gian du học. Thực hiện được Đệ Tử Quy chỗ nói là:
“Sáng dậy sớm, tối ngủ trễ
Lúc chưa già, quí thời gian”.
Cho nên khi tốt nghiệp thạc sĩ vào năm 1997, thì tất cả thành tích đều là ưu tú, toàn bộ thành tích đều là A. Do đó, được một phần thưởng đặc biệt 500 đô la tại trường học ở Mỹ. Sau khi cậu ấy nhận được 500 đô la này thì lập tức gửi cho tôi 200 đô la, để tôi cùng hưởng thành quả lao động của cậu ấy.
An trú trong cuộc sống học tập một cách thanh tịnh như vậy rất là chuyên tâm, cho nên Mao Sâm trong thời gian bốn năm đã hoàn thành toàn bộ khóa trình môn học của thạc sĩ và tiến sĩ, tốt nghiệp trước thời gian đã định. Cậu ấy viết thư nói với tôi rằng:“Mẹ à! Con đã hoàn thành toàn bộ khóa trình tiến sĩ một cách thuận lợi, mà còn thông qua kỳ thi tư cách tiến sĩ tài chính chỉ trong một lần thi mà thôi”. Ở Mỹ dự thi tư cách tiến sĩ kinh tế từ sáng đến tối mất khoảng 8 tiếng đồng hồ, giữa thời gian chỉ có thể ăn một cái bánh mì. Cách thi này là sát hạch toàn diện về học thức, tố chất và sức khỏe của một sinh viên. Có những sinh viên do không thể chịu đựng nổi thời gian sát hạch lâu dài như vậy, cho nên không thể hoàn thành trong một lần thi. Có người thì do chuẩn bị trong việc học tập chưa đủ, có người thì do tố chất tâm lý không tốt nên hơi căng thẳng, hơi sợ hãi hoặc lo lắng, cho nên rất nhiều người đã không thể thông qua loại sát hạch này trong một lần được. Mao Sâm là một người rất may mắn, chỉ một lần là vượt qua luôn. Thông qua kỳ thi tư cách tiến sĩ nhưng mà chúng tôi cảm thấy để đạt được cái may mắn này là nhờ sự nỗ lực và tích lũy lúc bình thường.
Con: Tôi giống như là một cái cây nhỏ, đằng sau tôi có một người làm vườn rất là cần cù lao động. Người làm vườn này chính là mẹ tôi. Bất luận là ở bên cạnh mẹ hay là cách xa mẹ thì sự quan tâm của mẹ cũng luôn theo bên tôi. Trong một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật tôi, mẹ đã viết như vầy:
“Mao Sâm con! Chúc phúc của mẹ sẽ theo con đến tận chân trời góc biển; Tâm nguyện của mẹ sẽ phụ thuộc vào ánh quang minh trong sạch của một đời con!”.
Trước khi tốt nghiệp tiến sĩ một năm, tôi đúng 25 tuổi, mẹ đã gửi cho tôi một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật rất là đặc biệt. Trong tấm thiệp này có hình của tôi từ khi còn nhỏ đến lớn, lời chúc phúc của mẹ tôi cũng rất ý vị. Xin chia sẻ cùng mọi người cái lý tưởng này. Mọi người nhìn cái thiệp này, góc trái phía trên là hình mẹ tôi, dưới là lúc sơ sinh, sau đó là lúc đi nhà trẻ, đến tiểu học, trung học, và tấm hình đi học khi ở Trường đại học Trung Sơn ở Quảng Châu. Và còn hình chụp khi đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ nữa. Góc bên phải dưới là hình tôi và mẹ chụp chung ở trên Đỉnh Bát Đạt Trường Thành, Bắc Kinh, Trung Quốc, tượng trưng cho việc chúng tôi đã cùng nhau vượt lên trên một con đường. Lời chúc của mẹ được viết như thế này:
“Con trai Mao Sâm! Chúc mừng sinh nhật 25 tuổi của con. Quay đầu nhìn lại dấu chân mình đã qua đi con đã kiểm điểm được điều gì? Con lĩnh ngộ được điều gì?
Lời nhắn gửi con trai Mao Sâm của mẹ:
“Không rời Phật pháp mà hành thế pháp
Không bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp
Hoàn thiện nhân cách, thành tựu Phật đạo
Từ bi thanh tịnh, trú chân thật tuệ
Giải thoát ngay trong cuộc sống
Phụng hiến ngay trong xã hội!”
Mẹ của con!
Mùa xuân năm 1998”.
Mẹ: Giáo dục tố chất trong Đệ Tử Quy có một câu nói:
“Phàm là người, đều yêu thương
Che cùng trời, ở cùng đất”.
Thời gian Mao Sâm du học tại Mỹ đã hai lần đi đến bệnh viện hiến máu. Khi đó bệnh viện ở Mỹ rất mong có được loại máu tốt của những thanh niên khỏe mạnh để dự phòng cấp cứu cho bệnh nhân. Mao Sâm rất vui vẻ đáp ứng. Cậu ấy lấy việc này kết duyên với người dân Mỹ, khiến cho dòng máu mạnh khỏe của thanh niên chúng ta cũng chảy trong mạch máu của người Mỹ. Khi đó Mao Sâm vẫn còn là một thư sinh nghèo, nhưng mà thanh niên là có nhiệt huyết, có lòng yêu thương, cho nên nói người chúng ta không nghèo! Khi con trai gọi điện cho tôi nói về việc đi đến bệnh viện hiến máu, tôi đã rất là khen ngợi, tán thành cái tinh thần phụng hiến xã hội này của con trai. Chỉ cần con vì đại chúng mà phục vụ thì người làm mẹ đều nên giúp đỡ ủng hộ. Chúng ta nên ủng hộ hết thảy các ý niệm thiện của con cái, nên tùy hỷ mà tán thán hết thảy thiện hành của con cái. Làm như vậy có phải bị thiệt thòi không? Không thiệt thòi. Trong quá trình con cái phụng hiến cho đại chúng thì cũng có thể nâng cao tinh thần và phẩm đức của mình, khiến cho tinh thần và phẩm đức của mình được thăng hoa, khiến cho sự thông minh được thăng hoa. Đây là từ góc độ chính mình mà nói, còn nhìn từ góc độ người khác mà nói thì sự phụng hiến này có thể khiến cho người khác nhìn thấy được, đạt được lợi ích, cho nên cách dâng hiến này là tự lợi lợi người.
Khi Mao Sâm du học ở Mỹ đã phát hiện được trong trường không có cung cấp kinh phí giúp các nghiên cứu sinh làm những hoạt động về học thuật. Ví dụ như học sinh và thầy cô giáo cùng đi tham dự một hội nghị về học thuật, thì tất cả chi phí cho các thầy cô giáo sẽ do nhà trường gánh vác, nhưng mà các nghiên cứu sinh thì phải tự mình bỏ tiền túi ra. Nào là đóng phí công tác, phí ăn ở, còn có phí hội nghị nữa, đều là do học sinh tự mình lo liệu. Là học sinh mà nói thì vấn đề tiền bạc đều có hạn, không có thu nhập mà. Xét thấy cái tình huống như vậy cho nên Mao Sâm đã làm một báo cáo gửi cho trường đại học Mỹ này yêu cầu lập ra một nguồn ngân quỹ dành cho các các nghiên cứu sinh làm các hoạt động về học thuật, trường học cần phải cấp kinh phí. Khi đó Mao Sâm tự mình cũng bày tỏ với nhà trường rằng: “Tôi sắp tốt nghiệp rồi, sau khi tôi tốt nghiệp nhất định sẽ chi một khoản tiền lương gửi về đây để giúp đỡ ủng hộ hạng mục này. Tôi sẽ gửi cho trường mỗi năm 1.000 Đô la”. Sau khi Mao Sâm tốt nghiệp tiến sĩ thì đi đến dạy học ở trường đại học Texas Mỹ rất là thuận lợi. Lúc đó, sau khi nhận được tiền lương tháng đầu tiên cậu ấy đã ngay lập tức chuyển 1.000 Đô la về cho trường cũ. Khi chủ nhiệm khoa tài chính là giáo sư An Đức Sâm nhận được số tiền 1.000 Đô la thì ông đã rất là tán thán cái tinh thần tuân thủ lời hứa của học sinh Trung Quốc chúng ta. Đối với cách phụng hiến vô tư của học sinh chúng ta ông ấy đều đưa lên một ngón tay cái. Về sau, do vì nỗ lực này của Mao Sâm mà nhà trường đã từ từ thiết lập ra một hạng mục ngân quỹ. Sau này những học sinh này tốt nghiệp, trước khi tốt nghiệp đều có thể thụ hưởng được cái đãi ngộ này, có thể tham gia làm các hoạt động về học thuật mà nguồn ngân quỹ sẽ do nhà trường cung cấp, giúp cho những nghiên cứu sinh tiến sĩ có được những thuận lợi này. Mao Sâm đã liên tục năm năm liền sau khi tốt nghiệp mỗi năm đều gửi 1.000 Đôla Mỹ cho nguồn ngân quỹ này, nhằm giúp đỡ ủng hộ công tác học tập và nghiên cứu của những nghiên cứu sinh này. Trên thực tế, lòng yêu thương của việc suy bụng ta ra bụng người cũng là tiên sư Khổng Lão Phu Tử đã từng dạy chúng ta, là một trong những tố chất mà Đệ Tử Quy dạy cho chúng ta là yêu thương người.
Đức Khổng Tử dạy bảo là nhân đạo. Chúng ta nhìn thấy chữ “Nhân” có hàm chứa đến hai chữ người bên trong, cũng chính là nói khi chúng ta nghĩ về chính mình thì đồng thời cũng phải nghĩ đến người khác, khi quan tâm đến bản thân mình thì cũng phải quan tâm đến người khác. Trong Luận Ngữ có ghi chép học trò tên là Phàn Trì đã hỏi thầy mình rằng: “Thế nào là Nhân?”. Khổng Tử nói: “Yêu thương người là Nhân”. Đệ Tử Quy cũng viết: “Phàm là người, đều yêu thương”.
Trong loại giáo dục tố chất này của Đệ Tử Quy có một câu nói rằng:
“Gần người nhân, tốt vô hạn
Đức tiến dần, lỗi ngày giảm”.
Đó chính là dạy bảo chúng ta cần phải thân cận vị thầy có học vấn có đạo đức, thân cận người thiện tri thức. Tôi rất là lưu ý các vị thầy này của Mao Sâm. Từ khi tiểu học, trung học rồi đến đại học, một mạch cho đến khi làm nghiên cứu sinh, tôi đều rất chú ý từ các thầy cô chủ nhiệm cho đến các thầy cô bộ môn, thậm chí là hiệu trưởng trường. Mỗi lần họp phụ huynh học sinh tôi đều quyết không vắng mặt. Tôi rất là chăm chú lắng nghe những đánh giá về ưu điểm và khuyết điểm của Mao Sâm từ thầy chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn, đồng thời tôi cũng lưu ý tố chất của những vị thầy cô này, nhìn xem các thầy cô này họ đối người tiếp vật, tính trách nhiệm và lòng yêu thương của họ đối với con trẻ như thế nào. Một khi tôi phát hiện ra được một vị thầy cô tốt, tôi nhất định sau đó sẽ dắt con mình đi đến nhà vị thầy cô đó để thăm hỏi. Tôi muốn cho con tôi tiếp xúc nhiều với những vị thầy cô ưu tú này. Những cảm xúc tốt đẹp về những thầy cô ưu tú này đối với con trẻ là một sự huân tập rất tốt.
Tôi còn nhớ khi Mao Sâm còn học đại học, ông Vương Bình Sơn là Viện trưởng Học viện Lĩnh Nam, ông là một nhà giáo dục. Tôi thường đưa Mao Sâm tới nhà ông ấy làm khách. Khi đó con tôi còn rất trẻ, chỉ mới vừa lên đại học nên còn chưa biết phải nói chuyện như thế nào, chỉ ngồi bên cạnh mà nghe thôi. Tôi cùng ông hiệu trưởng nói chuyện về tình hình dạy học. Ông Vương Bình Sơn, vị viện trưởng này, ông ấy vừa bàn về giáo dục là thao thao bất tuyệt. Ông ấy nói về việc tư cách một người thầy thì phải như thế nào, khóa trình dạy học thì phải sắp xếp ra làm sao, đối với học sinh thì yêu cầu những gì, v.v… Cái tinh thần yêu nghề của một nhà giáo dục và cái nhiệt tâm đối với sự nghiệp giáo dục của ông đối với một người trẻ tuổi như Mao Sâm đều là một sự huân tập rất tốt.
Lúc đó, việc tiếp cận với những vị thầy cô có đạo đức có học vấn không những là ở trong trường, tầm mắt tôi cũng chú ý đến bên ngoài trường. Tôi cũng còn nhớ có một lần tôi tham gia một cuộc họp báo cáo, khi đó người làm báo cáo là một vị giáo sư người Mỹ ở Trường đại học Chicago. Ông ấy là một giáo sư về mặt xã hội học. Ông ta dùng tiếng Anh để làm bài phát biểu. Người phiên dịch là thầy Trần, một vị giáo viên trẻ tuổi của học viện Ngoại ngữ Quảng Châu. Khi đó, nghe bài báo cáo tôi cảm thấy trình độ phiên dịch của thầy là rất cao, cách phiên dịch của thầy ấy rất chuẩn xác, rất văn nhã, hơn nữa dáng vẻ thái độ của thầy ấy cũng rất là văn minh. Trong lòng tôi rất tán thán vị giáo viên này. Khi đó tôi nghĩ rằng, nếu như con trai tôi có thể học tiếng Anh với một giáo viên như vậy thì tốt biết mấy! Cho nên sau khi hội nghị báo cáo kết thúc, tôi liền đi đến trước mặt thầy Trần và khen ngợi trình độ phiên dịch của thầy ấy. Thêm vào đó, tôi bày tỏ tâm nguyện của một người làm mẹ. Tôi nói với thầy ấy rằng, tôi rất hy vọng thầy ấy có thể hướng dẫn cho con trai tôi. Nếu như thầy ấy có thể thì vào ngày chủ nhật đến nhà chúng tôi hoặc là chúng tôi sẽ đến nhà thầy ấy. Tôi nói đến lúc đó có rất nhiều bạn thân của tôi cũng có con cái, chúng cũng trạc tuổi con tôi, cũng hy vọng có những vị thầy ưu tú như vầy chỉ bảo. Vị thầy họ Trần này có tố chất rất khác người thường. Thầy ấy là một người rất có lòng yêu thương, sự độ lượng cũng rất là sâu rộng, không ngờ thầy ấy lại có thể đáp ứng lời yêu cầu của tôi, vào ngày chủ nhật thì đến nhà tôi. Tôi liền triệu tập Mao Sâm cùng với các người bạn thân và những đứa cùng tuổi, mở một buổi tọa đàm về học tập ngay trong nhà tôi. Thầy Trần liền giảng cho mọi người cùng nghe làm thế nào để học tốt môn tiếng Anh. Về sau, những đứa trẻ này gặp phải những vấn đề gì trong việc học tiếng Anh đều chủ động thỉnh giáo thầy Trần. Sau này, tôi nghe nói vị thầy họ Trần ấy hiện nay đã là Phó hiệu trưởng Trường đại học Ngoại ngữ Ngoại thương Quảng Đông. Đây đều là những vị thầy rất ưu tú, đều là những vị thầy yêu mến sự nghiệp giáo dục.
Tiếp cận với những vị thầy ưu tú không chỉ ở bên trong và bên ngoài trường học, mà những người làm mẹ như chúng ta cần phải chú ý đưa ánh mắt mình ra xã hội, chú ý cả về mặt tôn giáo. Năm 1990, sau khi cha tôi mất, vì để có thể giúp mẹ tôi giải trừ những tâm tư quá bi thương trong lòng của bà, tôi đưa bà đến chùa Quang Hiếu ở Quảng Châu, là ngôi tự viện lớn nhất để cho khuây khỏa. Trên thực tế, tôi cũng chưa từng đi qua ngôi chùa này, tôi cũng không biết phải đi như thế nào, nhưng mà vì phải đưa mẹ tôi đi nên cứ đi thử, không nên cứ ở nhà mà buồn bã mãi. Lúc đó, chúng tôi ngồi xe taxi đi, nói với tài xế taxi là anh ta có biết chùa Quang Hiếu không, chúng tôi muốn đi đến chùa Quang Hiếu. Khi chúng tôi lần đầu tiên bước vào chùa, vị thầy xuất gia đầu tiên mà chúng tôi gặp phải là lão hòa thượng Bổn Hoán - Phương trượng của chùa. Sau này tôi mới biết Lão hòa thượng Bổn Hoán này là vị cao tăng đại đức rất nổi tiếng ở nước ta. Lão hòa thượng năm nay đã 101 tuổi, còn rất khỏe mạnh. Khi tôi đưa mẹ đến chùa, sau khi nhìn thấy lão hòa thượng, cái khí chất và tu dưỡng rất thanh tịnh của Lão hòa thượng khiến cho tâm tình buồn bã của tôi và mẹ tôi như là giảm đi rất nhiều. Lúc họ ăn cơm vào 11 giờ trưa, lão hòa thượng rất là từ bi đã giữ mẹ con chúng tôi lại ăn một bữa cơm chay. Tôi còn nhớ bữa cơm chay cũng rất ngon, rất là khai vị.
Thế là sau đó tôi cũng dắt con trai đi đến chùa Quang Hiếu, đi đến bên cạnh lão hòa thượng, bắt chuyện cùng ông. Tôi muốn cho con trai tiếp xúc một chút với người xuất gia, xem xem những người xuất gia thanh tịnh và tiết dục này họ sống như thế nào? Mao Sâm khi đó là một sinh viên đại học cũng rất là thích hỏi han, hỏi lão hòa thượng người khi xưa vì sao lại xuất gia? Người xuất gia vì mục đích gì? Hỏi rất nhiều những vấn đề như vậy. Lão hòa thượng Ngài cũng rất là nhẫn nại trả lời.
Sau đó thì rất là may mắn, vào năm 1992, chùa Quang Hiếu lễ thỉnh Lão pháp sư Tịnh Không đến ngôi chùa này giảng giải Kinh A Di Đà. Đi nghe hết năm ngày, tôi vừa đúng có cơ hội cung kính lắng nghe Tịnh Không lão pháp sư giảng Kinh A Di Đà. Tôi lập tức gọi điện bảo Mao Sâm ở đại học Trung Sơn hãy mau quay trở về để được gặp vị Pháp sư này. Tôi thấy được Tịnh Không lão pháp sư chân thật là soi sáng cho mọi người, một vị Pháp sư giảng kinh thuyết pháp, tôi nhìn thấy cái hình tướng của Ngài như vậy trong lòng rất là hoan hỷ. Nhưng mà do vì Lão pháp sư chỉ nán lại ở chùa Quang Hiếu một thời gian rất ngắn mà người thì rất nhiều, trong vội vàng như vậy mẹ con chúng tôi cũng không thể nói chuyện nhiều được với Lão pháp sư. Nhưng may mắn là sau khi Mao Sâm đến Mỹ du học, trường đại học sở tại lại ở  rất gần đạo tràng Tịnh Tông Học Hội Dalas, Mỹ do Lão pháp sư Tịnh Không thành lập. Tôi liền nói với con trai rằng con nên đi lại đạo tràng nhiều một chút, đi đến đó học tập. Học tập điều gì? Là học tập những điều luật thanh tịnh. Cho nên Mao Sâm đã tận dụng những ngày nghỉ của mình đi đến Tịnh Tông Học Hội Dalas của Lão pháp sư để giúp đỡ một số việc công ích như là giúp quét nhà, giúp rửa nhà vệ sinh, giúp đổ rác, v.v… Ngoài ra thì còn tham gia một số hoạt động hộ sinh và phóng sinh, và ăn cơm chay ở đó nữa. Đặc biệt là ở đó có cơ hội được nghe Lão Pháp Sư giảng kinh thuyết pháp. Sau này chúng tôi cũng dần dần hiểu ra, học vấn trong Phật kinh là rất lớn! Vũ trụ là hình thành như thế nào? Tại sao trong đời người có người có cuộc sống rất là hạnh phúc, nhưng mà cũng có người có cuộc sống rất là đau khổ? Có người thì rất giàu, có người thì rất nghèo? Có người thì rất là cao quí, có người thì rất là thấp hèn? Những điều này trong Phật kinh đều có câu trả lời. Cho nên chúng tôi cảm thấy trong Phật kinh có trí tuệ.
Phật giáo là một loại giáo dục, có thể hoàn thiện và bổ sung cho loại giáo dục từ tiểu học đến đại học của chúng ta hiện tại.
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc vào năm 67 sau Công Nguyên. Khi đó là triều đại Vĩnh Bình Minh Đế Đông Hán năm thứ mười. Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài là một vị hoàng tử của Ấn Độ. Hồi còn trẻ, khi Ngài nhìn thấy hiện tượng sinh lão bệnh tử, thế là Ngài cảm thấy những cái khổ nhân sinh này mọi người đều không có cách nào tránh khỏi, cho dù là vương tử thì cũng không có cách nào trốn tránh. Do vậy, Ngài đã cảm ngộ rồi từ bỏ vương vị của mình, rời bỏ gia quyến của mình mà xuất gia tu đạo, lập chí là phải hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, để từ đó giải thoát cái khổ của nhân sinh. Sau cùng thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã chứng đạo dưới cội Bồ Đề, cũng chính là Ngài đã minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Ngài có thể thành Phật là khiến cho sự giác ngộ, ánh quang minh trí tuệ vốn có trong lòng mình toàn bộ phát lộ ra. Cho nên về sau Thích Ca Mâu Ni Phật đã dành trọn phần đời còn lại của mình để làm công tác giáo dục. Do đó  Phật giáo là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, gọi tắt là giáo dục của Phật Đà. Cho nên Phật giáo dạy chúng ta những gì? Phật giáo dạy chúng ta là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhân sinh chính là bản thân chúng ta, vũ trụ là hoàn cảnh sống của chúng ta. Phật dạy chúng ta cần phải giác ngộ, trong thì giác ngộ bản thân cuộc sống chúng ta, ngoài thì giác ngộ hoàn cảnh sinh hoạt này. Chân chánh giác ngộ rồi thì chúng ta mới có thể chi phối được vũ trụ này, mới có thể chi phối cuộc sống của chính mình, gọi là được đại tự tại – đạt được đại giải thoát. Nếu như không giác ngộ vậy thì sẽ bị hoàn cảnh nhân sự của chúng ta chi phối. Chịu sự bó buộc của nó thì không thể nào được tự tại. Cho nên người người đều nên tiếp nhận sự giáo dục của Phật Đà.
Cương lĩnh giáo dục của Phật giáo hàm chứa ngay trong danh tự Thích Ca Mâu Ni Phật. “Thích Ca” có nghĩa là nhân ái, từ bi, là ý nói có thể giúp đỡ cho chúng sanh. “Mâu Ni” có nghĩa là yên tĩnh và thanh tịnh, là có trí tuệ đầy đủ viên mãn, Ngài có thể hồi quang phản chiếu mà đoạn trừ phiền não. Cho nên nói Phật giáo là nền giáo dục từ bi, nhân ái và trí tuệ, đó là nền giáo dục triết lý thánh hiền. Nếu như có người hỏi Phật giáo là gì, chúng ta có thể dùng một câu nói để trả lời họ. Đó chính là: “Chưác mạc tác, chúng thiện phụng hành; tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”.
Câu thứ nhất, “chư ác mạc tác” có nghĩa là hết thảy những việc ác, những sự việc trái loạn kỹ cương phép nước, không có đạo đức thì những việc này đều không làm. Còn tất cả những sự việc đều lợi nước lợi dân, vì nhân dân phục vụ thì những việc này gọi là “chúng thiện phụng hành”. Nếu như “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” mà chúng ta làm được rồi thì mỗi một con người nhất định sẽ có một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn, xã hội nhất định sẽ được hài hòa.
Còn “Tự tịnh kỳ ý” thì nói là ba nghiệp tThân - khẩu - ý của chúng ta đều phải được thanh tịnh. Tháng 4 năm ngoái, ở Hàng Châu có tổ chức “Luận Đàn Phật Giáo Thế Giới”, chủ đề là “Thế Giới Hài Hòa – Bắt Đầu Từ Tâm”, chính là nói tâm tịnh thì quốc độ tịnh, tâm an thì chúng sanh an, tâm bình thì thiên hạ bình. Thế nên muốn cho quốc độ chúng ta được thanh tịnh, muốn cho thế giới chúng ta được hài hòa thì nhất định trong tâm phải biết buông xuống những thứ phiền não ô trược của chúng nhà Phật có tham thiền, ngồi tĩnh tọa hoặc là thông qua tụng kinh, niệm Phật, v.v… Đây là những pháp môn không giống nhau dùng để làm sạch cái tâm của chúng ta.
Mục đích cuối cùng của nền giáo dục Phật giáo chính là giúp đỡ con người hồi phục trí tuệ viên mãn vốn có của mình. Cái đại trí tuệ này là người người đều sẵn có đầy đủ. Có được đại trí tuệ viên mãn này, cái trí tuệ này khởi dụng thì có thể giải quyết được hết thảy những vấn đề về vũ trụ nhân sinh, chân chánh đạt đến lìa khổ được vui. Nói tóm lại, nền giáo dục của Phật Đà là nền giáo dục chí thiện viên mãn  của Phật Đà đối với chúng sanh chín pháp giới. Nếu như nói nền giáo dục của Khổng Tử là giúp chúng ta một đời, thì giáo dục của Phật Đà là ba đời, là khối lập thể, khiến chúng ta có thể đạt đến lìa khổ được vui, cứu cánh viên mãn.
Sau khi Mao Sâm tiếp cận Lão pháp sư thì bắt đầu văn kinh nghe pháp. Người làm mẹ nhìn thấy đứa con mình mở mang trí tuệ, tâm địa cũng gia tăng thêm sự khoan dung và thiện lương, phẩm chất đạo đức không ngừng tăng lên. Nội dung trong Phật pháp là rất nhiều nhưng phẩm đức cơ bản là mười điều thiện. Mười điều thiện này là: Một là không sát sinh, hai là không trộm cắp, ba là không tà dâm, bốn là không nói dối, năm là không nói lưỡi hai chiều, sáu là không nói lời ác, bảy là không nói lời thêu dệt, tám là không tham lam, chín là không sân hận, mười là không si mê. Mười loại đức hạnh tốt đẹp căn bản này Mao Sâm rất là chú ý trong đời sống của chính mình, dần dần bồi dưỡng và củng cố.
Khi còn du học, Mao Sâm cũng muốn những bạn bè thân thích của mình ở Quảng Châu Đại Lục đều có thể nghe xem được những băng đĩa do Lão Pháp Sư giảng, cho nên khi trong đạo tràng tại Dalas muốn trang bị lại mới hơn, đổi mới sàng lọc những thiết bị đã cũ, trong đó có một cái máy thu băng, loại một cái chép thành ba cái vẫn còn mới nhưng mà vì lắp đặt thiết bị mới nên không dùng nữa, Mao Sâm quyết định mang nó về Trung Quốc Đại Lục. Năm đó khi về Trung Quốc thăm thân, cậu ấy đã vác cái máy này về. Khi đó đến Hồng Kông còn mua thêm một cái ổn áp nữa. Tại vì cái máy này rất nặng, cho nên khi vác nó đi thì những thứ khác đều không mang được, đến nỗi một bộ đồ cũng không mang được. Sau khi đến Quảng Châu thì đã đem nó tặng cho Hiệp Hội Phật Giáo thành phố Quảng Châu. Lúc đó thì pháp sư Vân Phong - Hội trưởng Hiệp Hội Phật Giáo Quảng Châu đã tiếp nhận sự việc này. Mao Sâm hy vọng sau khi mang máy này về có thể làm ra được nhiều hơn nữa những loại băng đĩa, chính là hy vọng mọi người có thể được nghe nhiều hơn, có thể được giác ngộ.
Tôi nhớ cách đây không lâu, khi đi qua Trường đại học Giang Đầu của thành phố Giang Đầu tỉnh Quảng Đông, tôi nhìn thấy trong trường đại học có một cái biểu ngữ viết là: “Kiến lập tự ngã – truy cầu vô ngã”. Kiến lập tự ngã là phải hoàn thiện chính mình, truy cầu vô ngã là đem bản thân buông xả, toàn tâm toàn ý mà vì đại chúng phục vụ. Cái khẩu hiệu này đề xuất ra được tôi nghĩ không đơn giản chút nào. Đây là đối với sinh viên hay là các thầy cô mà nói đều là một yêu cầu rất cao. Mỗi một học sinh chúng ta đều nên từ trên phương diện này mà làm một chút thử nghiệm, chính là nói bạn trong rất nhiều hoạt động có thể đem chính mình từ từ mà buông bỏ. Mao Sâm mang vác cái máy từ Dalas về còn phải chuyển máy bay rồi đến Hồng Kông lại phải chuyển nữa, như vậy mà nói thì những đồ cá nhân đều không mang về. Đây cũng là một cách thử nghiệm nho nhỏ, có thể truy cầu vô ngã – buông xả tự thân. Đương nhiên cái gọi là truy cầu kiến lập tự ngã là hoàn thiện chính mình. Chúng ta học Phật chính là hoàn thiện chính mình. “Truy cầu vô ngã”, trên văn tự đề như vậy nhưng kỳ thực là truy cầu cái vô ngã này vẫn là có cái truy cầu rất chấp trước ở bên trong. Cho nên chúng ta chính là phải từ từ xem nhẹ cái ta, từ từ mà buông xả mà toàn tâm toàn ý phục vụ cho đại chúng, xem nhẹ bản ngã đi. Cho nên, tôi cảm thấy Mao Sâm chân thật là “gần người nhân, tốt vô hạn; đức tiến dần, lỗi ngày giảm”.
Loại giáo dục tố chất này trong Đệ Tử Quy sau cùng còn đưa ra một điều là “có dư sức thì học văn”. Lúc Mao Sâm tốt nghiệp cấp hai, khi đó thời gian nghỉ hè tương đối dài, không có việc gì để làm, cũng đã thi xong lên trung học. Tôi chỉ vào cái tủ sách trong nhà mà nói với Mao Sâm: “Con đem cái tủ sách này sắp xếp lại cho ngay ngắn, rồi con hãy chọn ra một ít sách để mà học tập”. Từ trong rất nhiều sách như vậy mà cậu ấy lại có thể chọn ra một bộ sách tên là “Tuyển Tập Tư Liệu Sử Học Triết Trung Quốc”. Trong bộ sách này đã giới thiệu về Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Quốc một cách rất rõ ràng, giới thiệu “Trang Lão Chi Học”, giới thiệu “Đạo Đức kinh”. Tại đây chúng ta yêu cầu Mao Sâm đem những cái đã học được liên quan đến tư tưởng của Nhà Nho và Nhà Đạo đơn giản giới thiệu một chút với mọi người. Đây cũng chính là văn hóa truyền thống của Trung Quốc chúng ta.
Con: Tư tưởng Nhà Nho có thể nói là nguồn gốc của nền văn hóa Trung Hoa, không có tư tưởng của Nhà Nho thì cũng không có văn hóa Trung Hoa. Tư tưởng Nhà Nho rốt cuộc bao hàm những nội dung cơ bản gì? Nếu như chỉ dùng một câu nói để khái quát thì có thể dùng một câu trong Hán Thư là: “Du văn vu lục kinh chi trung, lưu ý vu nhân nghĩa chi tế, tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Vũ, tôn sư Trọng Ni”, đây là nội dung cơ bản của nhà Nho. Có thể thấy trong đây có bốn từ mấu chốt. Thứ nhất là “Lục Kinh”, thứ hai là “Nhân Nghĩa”, thứ ba là “Nghiêu Thuấn Văn Vũ”, thứ tư là “Trọng Ni”.
Vậy “Lục Kinh” là gì? Lục kinh chính là sáu bộ kinh điển chủ yếu trong nhà Nho. Đó là Thi Kinh, Thượng Thư, Nghi Lễ, Chu Dị, Xuân Thu và Nhạc Kinh. Nhưng vì Nhạc Kinh đã bị thất truyền nên chỉ còn lại năm kinh. Sau này vào thời Tống triều thì Chu Hỷ lấy thêm ra trong kinh điển Nhà Nho bốn quyển là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn quyển này gọi là Tứ Thư mà chúng ta thường nói là Tứ Thư Ngũ Kinh. Tư tưởng Nho gia bắt đầu từ Triều Hán, trong lịch sử được tôn xưng là văn hóa Trung Quốc chính thống.
Yếu tố thứ hai là “Nhân Nghĩa”. Đây cũng là hai phạm trù chủ yếu của Nhà Nho. Mạnh Tử nói: “Nhân, nhân tâm dã; Nghĩa, nhân lộ dã”, đây là chỉ dạy con người trong tâm cần phải có Nhân mà hành sự phải tuân theo Nghĩa. Cái Nghĩa này là phải nên làm được.
Yếu tố thứ ba là: “Nghiêu Thuấn Văn Vũ”. Đây là chỉ bốn vị hoàng đế của Trung Quốc cổ đại. “Cái đạo của vua Nghiêu vua Thuấn là do  Hiếu để mà thành”. Nhà Nho thì nói là: “Từ vua cho đến dân đều lấy tu thân mà làm gốc”. Nói đến tu thân thì Đệ Tử Quy có dạy là “Hiếu để trước”. Cho nên hai vị vua Nghiêu Thuấn đã trở nên vĩ đại, lấy hiếu trị thiên hạ, lấy đức làm mẫu mực trị nước. Văn Vũ là chỉ Chu Văn Vương và Chu Vũ Vương. Họ đã đặt ra việc hoàn thiện điển chương lễ nghĩa. Lấy Lễ Nhạc để giáo hóa bá tánh là mẫu mực của “kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”.
Yếu tố thứ tư là “Trọng Ni”. Đây thì chúng ta đã rất rõ về đức Khổng Tử rồi. Khổng Tử họ Khâu tên là Trọng Ni, sinh năm 551 và mất năm 479 trước công nguyên. Ngài là người nước Lỗ, chính là nhân sĩ của huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông bây giờ. Hưởng thọ 73 tuổi. Ông là người sáng lập ra Nho giáo. Nghe nói lục kinh trong nhà Nho đều là do chính tay Khổng Tử xác lập và chỉnh lý. Văn hóa mấy nghìn năm trước thời của Khổng Tử nhờ có Ngài mà được tiếp tục lưu truyền, văn hóa mấy nghìn năm sau thời của Khổng Tử cũng nhờ có Ngài mà khai mở, cho nên người ta xưng tán Khổng Tử rằng: “Trời không sinh Khổng Tử, vạn cổ như đêm trường”. Lại còn khen rằng: “Đức ứng thiên địa, đạo quán cổ kim, san thuật lục kinh, thùy hiến vạn thế”. Đây là nói đức hạnh của Khổng Tử đã tương ứng với trời đất. Cái đạo của ông xuyên suốt từ cổ chí kim, không những biên đính ra lục kinh mà còn đem sự giáo hóa đó lưu truyền liên tục nghìn đời sau. Cho nên nhà Sử học Tư Mã Thiên đã tán thán Khổng Tử là:“Có thể gọi là chí thánh”. “Chí Thánh tiên sư Khổng Tử” - cách hành văn này cũng được ghi vào trong Luận Ngữ. Luận Ngữ được khen là “Hoa Hạ Thánh Kinh”.
Trên đây là giới thiệu đơn giản cho mọi người cái gọi là bốn yếu tố của nhà Nho: Lục kinh, Nhân Nghĩa, Nghiêu Thuấn Văn Vũ và Trọng Ni.
Nếu chúng ta đem tư tưởng Nho gia ví thành một cây đại thụ, vậy thì cái gốc cây là ở đâu? Cái gốc cây này chính là Đệ Tử Quy. Nếu như nói không có cái nền tảng Đệ Tử Quy thì bốn cái yếu tố trong Nhà Nho cũng không có cách nào làm cho được. Đệ Tử Quy nói những gì? Phía trước chúng ta đã nói qua, Đệ Tử Quy chính là giảng nói những tố chất cơ bản để làm người.
Tiếp đến là xin giản yếu giới thiệu một chút về tư tưởng Đạo Gia với mọi người. Nếu như nói tư tưởng Nho Gia là xu hướng chính của nền văn hoá Trung Quốc thì tinh thần của Đạo gia cũng thẩm thấu vào trong cái tiềm thức của nền văn hóa Trung Hoa. Nhà Nho bước vào xã hội tinh thần rất mạnh thì Nhà Đạo bước vào xã hội rất sâu. Tư tưởng của nhà Đạo thì lấy Lão Tử và Trang Tử làm đại biểu. Đặc biệt là Đạo Đức Kinh của Lão Tử nổi tiếng thế gian. Tinh thần Đạo Gia là: “nhất ngôn dĩ tế chi” chính là “Đạo pháp tự nhiên”. Cái tự nhiên nói ở đây không phải là thế giới tự nhiên hay là khoa học tự nhiên mà chúng ta thường nói. Nó là chỉ một loại trạng thái tự nhiên của vũ trụ bản lai không tịch. Cái trạng thái này không có cách nào dùng ngôn ngữ hay tư duy để có thể đạt được, rất khó để có thể biểu đạt được.
Đạo gia đề xướng “vô vi nhi vô bất vi”. Cái “vô vi” ở đây cũng không phải là nói là việc gì đều chẳng làm, ngồi không chẳng làm gì. Nó là dạy người trong lòng có thể buông bỏ được mất, buông bỏ khổ vui mà thuận theo tự nhiên, mà không vọng tưởng. Khi đó tôi học tập Đạo Đức Kinh, ấn tượng sâu nhất là câu đầu tiên và câu cuối cùng của quyển kinh này. Bây giờ xin được chia sẻ cùng mọi người.
Đạo Đức Kinh, câu đầu tiên nói rằng: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; Danh khả danh, phi thường danh”. Đây nói rằng chân đạo là không có cách nào dùng ngôn ngữ để biểu đạt. Nếu như có thể nói ra được, có thể nói ra được tình trạng thì đó không phải là thường đạo. Câu cuối cùng là: “Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh”. Ở đây nói rằng, đạo lý và cách làm của thánh nhân chính là nỗ lực phụng hiến, vì nhân dân phục vụ, nhưng mà tuyệt đối không tranh công, không tranh danh, không tranh lợi. Chúng ta có thể thông qua hai câu nói này thể hội qua một chút thái độ xử thế và phong cách của Đạo Đức Kinh. Vậy cái gốc của nhà Đạo là ở đâu? Nếu như nói Đạo Đức Kinh là một cây đại thụ thì cái gốc này nằm ở Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, vì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là đạo lý cảm ứng tự nhiên và nhân quả báo ứng mà Lão Tử truyền dạy cho người đời sau. Bởi vì con người chỉ cần có thể tin sâu nhân quả báo ứng, có thể thuận theo đạo lý cảm ứng tự nhiên mà làm việc, sau cùng người đó có thể đạt được cái đạo pháp tự nhiên – cảnh giới của “vi nhi bất tranh”.
Mẹ: Sách là bậc thang của tiến bộ nhân loại. Người xưa nói: “Mở sách có ích”. Xem ra câu nói này rất có đạo lý. Trong nhà chúng ta nên chuẩn bị một ít sách cất giữ để cho con cái có một môi trường mà học tập, có một chút bầu không khí của việc học tập. Con cái thường thường chủ động đi tìm một số sách để xem, đều có thể gia tăng chính kiến của bản thân. Cách đây không lâu, chúng ta thấy các thành phố trong nước đều chú trọng việc học tập, đọc sách hay. Chúng ta thấy hồi tháng năm, bộ phận tuyên truyền của thành phố Giang Đầu lần đầu tổ chức Hội nghị Luận Đàm Gia Đình Đọc Sách. Đề ra cái khẩu hiệu gì? Đề ra cái gọi là: “Sách hay là bạn đồng hành”. Phải làm bạn với sách, làm bạn với tri thức, tạo ra tủ sách hay cho gia đình. Câu nói: “Tạo ra tủ sách hay cho gia đình” trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói qua bao giờ, hiện nay đều kêu gọi chúng ta phải tạo ra tủ sách hay trong gia đình. Cho nên trong những hội nghị này và việc xem trọng việc học việc đọc sách hay đều cho chúng ta áp dụng trong Đệ Tử Quy là “có dư sức thì học văn”, đã đưa ra một hoàn cảnh rất tốt, một bầu không khí rất tốt.
Vừa rồi chúng tôi đã báo cáo về việc bồi huấn các loại tố chất đối với con cái chúng ta. Bồi huấn những tố chất này thì Đệ Tử Quy đã dạy chúng ta là Hiếu - Để - Cẩn - Tín - Ái chúng - Thân nhân - Học văn, bồi huấn tố chất của bảy phương diện này. Cho nên chúng ta sâu sắc mà thể hội được rằng, Đệ Tử Quy chính là một tài liệu giảng dạy tốt nhất để tiến hành giáo dục tố chất cho con cái trong gia đình chúng ta.
Sau đây chúng tôi xin tiếp tục báo cáo với mọi người về phương diện thứ năm là: Vấn đề hàng đầu của giáo dục trong gia đình - Đó là cùng lúc tiếp thu giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền.
********************
Vấn đề thứ năm:
Vấn Đề Hàng Đầu Của Giáo Dục Trong Gia Đình - Đó Là Cùng Lúc Tiếp Thu Giáo Dục Nhà Trường, Giáo Dục Xã Hội Và Giáo Dục Triết Lý Thánh Hiền.
Việc giáo dục trong gia đình cho con cái nhất định phải dung hợp bốn loại giáo dục này. Chúng ta vừa mới nói bốn loại giáo dục bao gồm giáo dục trong gia đình, giáo dục của nhà trường, giáo dục ngoài xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền. Bốn loại giáo dục này đều có thể dung hợp và thông suốt trong bản thân của con trẻ, như vậy thì đứa trẻ này mới có thể từ từ trở thành một nhân tài của xã hội. Nhưng mà gia đình rất là quan trọng. Gia đình là lớp học đầu tiên của đứa trẻ, cũng là lớp học vĩnh cửu của nó. Người mẹ là cô giáo chủ nhiệm đầu tiên của đứa trẻ, cũng là cô giáo vĩnh cửu của nó. Cha mẹ đều là những người thầy vĩnh cửu của con trẻ. Cha mẹ đã qua đời, đã rời xa, nhưng khi con cái cầm hình cha mẹ lên thì vẫn còn lại những điều dạy bảo của cha mẹ. Một khi nhớ lại thì cảm thấy rằng cha mẹ vẫn là người thầy của chúng, vẫn còn cho chúng rất nhiều sự chỉ dạy và giúp đỡ.
Lão Xá tiên sinh, các bạn rất nhiều người đều biết. Ông là người Trung Quốc sau giải phóng, một kịch gia và tiểu thuyết gia hiện đại nổi tiếng. Trong rất nhiều tác phẩm của ông mà rất nhiều bạn đã xem qua tác phẩm của ông như là Con Lạc Đà May Mắn và Trà Quán nổi tiếng trong lẫn ngoài nước, có tác phẩm đã được dựng thành phim. Nửa phần đầu cuộc đời của Lão Xá tương đối là gian khổ. Mất cha khi được một tuổi rưỡi, sống với người mẹ vất vả nuôi một lúc năm anh em, trải qua cuộc sống vô cùng khó khăn, cho nên cuộc sống của ông thời thơ ấu và thời thiếu niên đều rất khổ, nhưng ông rất có chí khí, đã quyết tâm cố gắng cho tiền đồ rất mạnh mẽ. Sau đó Lão Xá đã làm đến giáo sư đại học, nhưng mà cuộc sống mẹ ông và năm người con vẫn vô vàng khó khăn, phải đi giặt đồ cho người ta, may quần áo như vậy để sống qua ngày. Sau này Lão Xá trở thành một văn học gia nổi tiếng, ông nhớ lại những điều giáo dục mà ông nhận được, rồi viết ra một đoạn văn ý tình sâu xa. Ông viết: “Từ trường tư thục cho đến tiểu học, đến trung học, tôi đã trải qua ít nhất cũng vài trăm vị thầy cô giáo. Trong đó có người có ảnh hưởng rất lớn với tôi, có người chẳng có ảnh hưởng gì. Nhưng mà vị thầy chân thật của tôi, người đã truyền tính cách cho tôi chính là mẹ tôi. Mẹ tuy là không biết chữ, nhưng bà đã cho tôi sự giáo dục trong cuộc sống”. Mẹ của Lão Xá tiên sinh là một người phụ nữ Trung Quốc rất cần cù, lương thiện, rất thành thật, rất dũng cảm. Bà là một người mẹ kiên cường. Vậy bà đã truyền dạy những gì cho Lão Xá? Làm sao thành cái giáo dục cuộc sống của Lão Xá? Bà đã đem cái cần cù, dũng cảm, kiên cường, cách đối đãi với người thành khẩn và lương thiện của bản thân mà truyền lại cho con trai mình, cho nên đã khiến cho sự nghiệp của con trai mình được thành công. Hiện tại chúng ta khi đọc đến tác phẩm của ông đều rất là cảm động. Vậy chúng ta có thể thấy được rằng giáo dục trong gia đình là căn bản, là hàng đầu. Giáo dục ở nhà trường là sự nối tiếp giáo dục của giáo dục gia đình, giáo dục ngoài xã hội là sự mở rộng giáo dục của giáo dục gia đình, và giáo dục của triết lý thánh hiền là thăng hoa giáo dục gia đình.
Vào cái năm mà Mao Sâm tốt nghiệp trung học là năm 1991. Trong thiệp chúc mừng sinh nhật gửi cho tôi, cậu ấy đã viết:
“Mẹ kính yêu, chúc mẹ sinh nhật vui vẻ!
Khi con mặc lên bộ quần áo đẹp mà mẹ cho, khi con mang chiếc đồng hồ mà mẹ tặng, khi con nhận lấy từng thứ từng thứ mà mẹ cho, con cảm nhận được sự quan tâm trong tình thương yêu của mẹ, sự vuốt ve âu yếm của mẹ.
Khi mà từ vài năm trước mà mẹ đã bắt đầu ấp ủ chuẩn bị cho con thi vào đại học,
Khi mà mẹ đặt ra mục tiêu cho con là “đứng nhất lớp” giờ đã thực hiện được.
Khi mà mẹ lần lần lượt lượt giảng giải cho con nghe cái đạo lý làm người,
Khi mà mẹ dạy con bỏ ác hướng thiện, quyết sách nhân sinh,
Thì con đã cảm nhận được cái hàm ý sâu sắc và cái thăng hoa trong tình thương yêu của mẹ!
Trong mắt của con, mẹ không những là vị thần bảo hộ, mà còn là người dẫn đường chỉ lối cho con. Nếu như nói con là một chiếc thuyền nhỏ trong biển đời sóng to gió lớn, vậy thì mẹ chính là người cầm lái trên chiếc thuyền đó!”
Xin các bà mẹ hãy chú ý, chúng ta đang gánh vác trên vai cái sứ mệnh gì vậy? Chúng ta là người cầm lái và dẫn đường cho con cái. Đức Khổng Tử mất cha từ khi mới có ba tuổi, giả như không có mẹ của Khổng Tử vậy thì lấy đâu ra “Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử” đây? Còn Mạnh Tử thì mất cha từ năm bốn tuổi, giả như không có ba lần dời nhà một cách đầy trí tuệ của mẹ Mạnh Tử, nếu không có sự phán đoán mang tính then chốt thì lấy đâu ra “Á Thánh Mạnh Phu Tử” đây? Cho nên đứa trẻ tốt là nhờ dạy dỗ mà ra! Tác phong tốt là nhờ dẫn dắt mà ra! Thành tích tốt là nhờ giúp đỡ mà ra. Sự dạy dỗ của người mẹ chính là cái gốc của thế giới hòa bình.
Trong phương diện giáo dục gia đình, ngoài những điều chúng ta vừa nói ở trên, ngoài sự giáo dục căn bản và giáo dục tố chất của giáo dục trong gia đình ra, thì những thứ nhỏ nhặt và quan trọng trong đời sống người làm mẹ như chúng ta đều phải giúp cho con trẻ nắm bắt cho được tốt. Thế nào được gọi là nắm bắt những thứ quan trọng? Đó là dạy con cái như thế nào để làm một con người. Sao lại bàn đến chuyện làm một con người? Chính là vì phải biết được đạo đức là gì?
Vậy đạo đức là gì? Đức là gì? Tổ tiên chúng ta từ 4.500 năm trước thì đã dạy chúng ta nhận biết cái Nhân Luân Đại Đạo này rồi. Đó là Cha con, Vua tôi, Chồng vợ, Anh em, Bạn bè, ngũ luân này gọi là nhân luân đại đạo. Một đời chúng ta không thể nào tách rời năm mối quan hệ này. Xử lý tốt năm mối quan hệ này chính là cái học an thân lập mạng của chúng ta, cũng là nền tảng cho quốc gia và xã hội hài hòa. Làm như thế nào mới có thể xử lý tốt năm mối quan hệ này? Tổ tiên đã cho chúng ta một kinh nghiệm. Muốn xử lý tốt năm cái mối quan hệ này thì chúng ta phải làm được cha con có thân, vua tôi có nghĩa, chồng vợ có biệt (chồng vợ có biệt nghĩa là có khác biệt, nam lo việc bên ngoài, nữ thì lo việc bên trong gia đình, nên gọi là chồng vợ có biệt), lớn nhỏ có thứ tự, bạn bè có tín. Cho nên vừa rồi chúng ta có nói đến ngũ luân là cha con – vua tôi – chồng vợ - anh em – bạn bè, đem áp dụng vào ngũ luân mà xử lý tốt năm mối quan hệ này. Cụ thể hơn là làm người phải làm tốt “Tám đức xưa”. “Tám đức xưa” là nền tảng làm người của chúng ta. Cổ bát đức chính là Hiếu – Để – Trung – Tín – Lễ – Nghĩa – Liêm – Sỉ. Tiếp theo Mao Sâm con hãy giới thiệu với mọi người một chút về tám phẩm đức này đi.
Con: Thưa vâng! Tám phẩm đức này gọi là Hiếu – Để – Trung – Tín – Lễ – Nghĩa – Liêm – Sỉ.
Cái thứ nhất, Hiếu là “đức chi bổn dã”, có nghĩa là căn bản của đạo đức. Vậy Hiếu là gì? Phụng sự cha mẹ thì gọi là hiếu. Thật sự lấy tấm lòng yêu thương, tấm lòng hiếu thuận, tấm lòng cung kính để mà đối đãi với cha mẹ, để mà tận hiếu, đây gọi là “gốc của đức” vậy. Đem cái tâm hiếu này mà mở rộng ra thì có thể phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Đức thứ hai là “Để”. Để là “đức chi tự dã”. Cái “để” này trong ngũ luân nói là: “Trưởng ấu hữu tự”. Phụng sự huynh trưởng của mình, hữu ái anh em của mình thì đây gọi là “Để”. “Để” hàm chứa ý nghĩa cung kính. Đem cái tinh thần của “Để” mà mở rộng, thì là tôn trọng sư trưởng, mà trong công việc cũng biểu hiện ra là tôn trọng sự nghiệp của mình, tôn trọng lãnh đạo của mình, tôn trọng đồng nghiệp của mình thì có thể chung sống hòa thuận với tất cả mọi người.
Đức thứ ba là “Trung”. Chỗ này nói là “Đức chi chính dã”. Người xưa có nói: “Lấy chính mình làm gương có thể độ hóa người khác”. “Tận kỷ chi vị trung”, tận tâm tận lực mà làm việc, mà phụng hiến thì gọi là “Trung”. “Trung” là gốc của “Hiếu”, là đem cái tâm hiếu mở rộng ra vì đất nước vì nhân dân phục vụ.
Đức thứ tư là “Tín”. Tín là “đức chi cố dã”. Người xưa nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Làm người khi làm việc thì phải nhấn mạnh đến sự thành tín. Trong xã hội thì người ta phải nói đến chữ tín, nói đến uy tín.
Đức thứ năm là “Lễ”. Lễ là “đức chi phạm dã”. Đây là chỉ hết thảy những Quy phạm – Nghi tắc – Lễ tiết. Ngoài xã hội phải tuân giữ pháp luật, tuân giữ Quy tắc chế độ, tuân giữ lễ phép. Đây đều là phạm trù của “Lễ”.
Đức thứ sáu là “Nghĩa”, được gọi là “đức chi nghi dã”. Chữ “Nghi” này nghĩa là nên làm, nên tuân theo. Nguồn gốc của nó ở trong ngũ luân đạo đức là “Vua tôi có nghĩa”, mở rộng ra là trong xã hội khi làm tất cả mọi việc đều phải thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa vụ. Nếu như thấy được cái lợi mà quên đi cái nghĩa thì đây gọi là “thấy lợi quên nghĩa, đây là không có đạo đức.
Đức thứ bảy là “Liêm”, gọi là “đức chi tiết dã”. Cái “tiết” này là chỉ khí tiết. Khí tiết phải thanh cao, phẩm hạnh phải liêm khiết. Đây là trong công việc phải hiểu được liêm khiết và tôn trọng công lý. Nhân phẩm của chính chúng ta cũng phải thanh cao liêm khiết.
Đức thứ tám là “Sỉ”. “Sỉ” là “đức chi cơ dã”. Đây là nền móng của đạo đức, tại sao vậy? Nếu như con người biết sỉ thì chúng ta nói con người này có lương tâm. Biết sỉ thì có thể khiến cho chúng ta không đến nỗi mất đi lương tâm của mình. Ở đây cái gọi là ngũ luân đạo đức, hiếu để trung tín lễ nghĩa liêm sỉ và ngũ luân mà khi nãy mẹ tôi đã nói đều có thể làm được tốt, đây chính là có thể làm được đến chỗ biết sỉ, mở rộng ra ngoài xã hội có thể làm được đoạn trừ tất cả ác, hết thảy những việc vi phạm pháp luật, làm loạn kỷ cương phép nước đều không làm. Tám cái đức này là nguyên tắc làm người.
Hiện nay chủ tịch Hồ Cẩm Đào - người lãnh đạo đất nước cũng đề ra cái gọi là “Bát vinh bát sỉ”.Trên thực tế cái “bát vinh bát sỉ” này cũng chính là  hiện đại hóa của  bát đức. Chúng ta xem trong “bát vinh bát sỉ” nói những gì.
1.      Lấy yêu mến tổ quốc làm vinh, lấy nguy hại tổ quốc làm sỉ, đây là nói đến “trung”.
2.      Lấy phục vụ nhân dân làm vinh, lấy rời bỏ nhân dân làm sỉ. Đây là nói đến “hiếu”.
3.      Lấy tôn sùng khoa học làm vinh, lấy ngu muội vô tri làm sỉ. Đây là nói đến “tín”.
4.      Lấy cần cù lao động làm vinh, lấy siêng ăn nhác làm làm sỉ. Đây là nói đến “sỉ”.
5.      Lấy đoàn kết tương trợ làm vinh, lấy tổn người lợi mình làm sỉ. Đây là nói đến “Để”.
6.      Lấy thành thật giữ tín làm vinh, lấy thấy lợi quên nghĩa làm sỉ. Đây là nói đến “tín và nghĩa”.
7.      Lấy tôn kỹ giữ pháp làm vinh, lấy vi pháp loạn kỹ làm sỉ. Đây là nói đến “Liêm và Sỉ”.
8.      Lấy gian khổ phấn đấu làm vinh, lấy kiêu sa dâm dật làm sỉ. Đây là cũng là nói đến “Liêm và Sỉ”.
Mẹ: Năm ngoái, Mao Sâm lấy đạo đức làm nội dung cho một số bài báo cáo diễn giảng, tiến hành diễn giảng các nơi trên thế giới. Trong đó bài báo cáo “Minh đạo đức – Tri vinh nhục” khi diễn giảng trong rất nhiều trường đại học đều nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Tại đại học Bắc Kinh, tại đại học Khoa Học Kỹ Thuật Bắc Kinh, tại đại học Sư Phạm Bắc Kinh, tại đại học Trung Dược Bắc Kinh, v.v… các sinh viên đều rất là hoan nghênh. Sau đó được trường Trung Ương Đảng Bắc Kinh ghi hình giám chế làm thành tư liệu học tập cho tất cả các trường Đảng trong cả nước với nhan đề là “Cách nhìn về vinh nhục trong xã hội chủ nghĩa”. Ngoài ra Mao Sâm còn đem đạo đức làm người làm thành nội dung cho bài báo cáo với đề mục: “Nền móng của thành công, hạnh phúc”. Khi diễn giảng tại Nam Kinh vào năm ngoái thì được Trung tâm Giáo Dục Đạo Đức Phụ Nữ và Nhi Đồng Trung Quốc chế tác làm thành tài liệu học tập cho 1.000 phòng dạy học trên cả nước. Vậy giáo dục trong gia đình phải nắm được cái căn bản này, chính là phải dạy cho con trẻ cái đạo đức làm người.
Vậy trong cuộc sống, làm thế nào để nắm bắt những thứ nhỏ nhặt của cuộc sống? Kỳ thực giáo dục thì không có gì là việc nhỏ cả, làm việc nhà cũng là giáo dục. Cho nên chúng tôi phải đặc biệt mà nhắc nhở những người cha người mẹ trẻ tuổi này, nếu muốn dạy con, nhất định phải dạy nó làm việc nhà, phải dạy trẻ con học cách tự lo liệu cuộc sống của bản thân. Hiện nay có những phụ huynh sắp xếp cho con cái quá nhiều lớp học tập ngoại khóa. Những lớp học về nghệ thuật cũng quá nhiều, như là lớp học đàn piano, lớp học thư pháp, lớp học vũ đạo, lớp học hội họa, còn có lớp võ thuật nữa, v.v... Trẻ con bận rộn từ thứ hai đến chủ nhật, không được nghỉ ngơi, còn bận hơn cả giám đốc nữa, cả ngày cứ vội vàng đi tiếp thu bài giảng, rồi đi nghe bài giảng. Trên thực tế, sự trưởng thành về trí tuệ học tập của con trẻ không phải hoàn toàn dựa vào việc bạn sắp xếp cho nó bao nhiêu lớp tài năng nghệ thuật hay bao nhiêu lớp kỹ thuật. Việc học của đứa trẻ đều là tăng trưởng về trí tuệ. Đứa trẻ học làm được việc nhà  đều có thể tăng trưởng được trí tuệ của nó.
Tôi còn nhớ khi Mao Sâm học lớp bốn, có một hôm chúng tôi tan ca trở về, tôi vừa mở cửa nhìn vào thì Mao Sâm liền chào tôi và nói: “Mẹ! Xin mời vào”. Tôi nhìn xem, thì ra đã làm xong một bàn đầy cơm canh, trên đó có trứng chiên, rau xào, còn cơm thì cũng nấu rất ngon, ngoài ra còn có một ít món phụ và món mặn đều đã dọn sẵn. Đây là lần đầu tiên con tôi chủ động làm một bữa cơm cho cha mẹ, cho nên tôi ấn tượng rất sâu. Nhưng mà chúng tôi cũng rất kinh ngạc. Kỳ thực là Mao Sâm ở nhà thường nhìn thấy chúng tôi làm việc nhà, cũng tham gia làm với chúng tôi như là quét nhà, đi đổ rác, ra quán tạp hóa gần nhà để mua tương mua giấm, rồi giúp rửa rau, xắt rau, v.v... đều là làm những công việc nhà này. Trong kỳ nghỉ đông chúng tôi đưa con đi về vùng nông thôn, đi về nhà ông bà nội, về quê chơi một chuyến, tham gia vào một số công việc đồng án, xem xem những loại hoa màu này mọc lên từ dưới đất như thế nào, xem xem rau cỏ lớn lên như thế nào. Những bạn nhỏ bây giờ nếu như bạn hỏi chúng là gạo từ đâu mà có thì chúng sẽ nói là từ siêu thị. Khó trách cổ nhân đã phải cảm thán rằng: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, nhưng trẻ con thì không biết. Chúng tôi dắt Mao Sâm đi về nông thôn để tham gia và học hỏi những công việc đồng án này. Được tham gia một số công việc đồng án ở nông thôn, thêm nữa được đi lại bằng chân không trên đất sét, được trèo cây (Mao Sâm trèo cây rất giỏi), được ra những con sông suối nhỏ để bơi lội, chơi cùng với trẻ con ở nông thôn. Mao Sâm từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng mua cho bất kỳ món đồ chơi nào cả. Tôi cảm thấy trời đất rộng lớn chính là nơi để chơi đùa.
Tính tự lập của Mao Sâm cũng khá mạnh, vì từ nhỏ, lúc mới ba tuổi tôi đã gửi hẳn vào nhà trẻ, cho nên từ ba tuổi tới sáu tuổi hoàn toàn là ở trong nhà trẻ, đến cuối tuần chúng tôi mới rước về nhà. Khi đó Mao Sâm vẫn còn là một đứa trẻ ba bốn tuổi mà thôi. Khi tôi đi rước là dắt cùng nhau đi bộ về nhà. Từ nhà trẻ mà đi về nhà của chúng tôi có đi ngang qua một công viên lớn. Đây là công viên Việt Tú của thành phố Quảng Châu. Trong công viên này có một ngọn núi, đây là công viên duy nhất có núi của thành phố Quảng Châu. Chúng tôi từ cửa phía nam của công viên đi qua cửa phía Bắc của công viên thì phải vượt qua một ngọn núi nhỏ. Khi đó tôi để cho Mao Sâm tự mình mang cặp. Trong cặp có rất là nhiều đồ đạc, nào là quần áo, nón nải, căn phồng như là một cái trống vậy. Lúc này gặp phải một bà lão đi bộ trong công viên. Bà nhìn thấy Mao Sâm mang một chiếc cặp to, bà liền nói: “Sao cô lại có thể để cho đứa nhỏ mang cặp sách vậy? Cô là người lớn phải xách phụ nó chứ!”. Bà lão này nói với tôi như vậy, tôi chỉ cười cười, lấy chiếc cặp trên người của con xuống. Sau đó, đợi cho bà lão đi xa rồi tôi lại lấy chiếc cặp đeo lên lại cho Mao Sâm. Mao Sâm từ nhỏ đã cùng tôi luyện tập đi bộ, leo núi, rồi đi dạo, cho nên thân thể khá là khỏe mạnh. Buổi sáng mỗi ngày đều cùng tôi vận động, bơi lội, cho nên từ khi trung học cho đến đại học Mao Sâm luôn là vận động viên bơi lội trong đội bơi lội của nhà trường. Khi cậu ấy học đại học, do bơi lội rất xuất sắc, tham gia cuộc thi bơi lội của trường đại học thành phố Quảng Châu và đạt được giải. Mao Sâm còn được trường học khi đó tặng cho một món tiền thưởng là 1.500 nhân dân tệ. Lúc đó, tiền lương của chúng tôi thông thường chỉ ở vào khoảng vài trăm nhân dân tệ trở lại, cho nên số tiền thưởng thể dục 1.500 tệ này đều làm mọi người rất ngưỡng mộ. Cho nên, chúng ta luyện tập những thói quen tốt để thân thể khỏe mạnh và cuộc sống độc lập cho con trẻ là vô cùng quan trọng. Đây đều không phải là chuyện nhỏ. Những thói quen sống tốt đẹp này là vốn liếng của cả một đời chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày tôi cũng không có hỏi con mình thích ăn món gì. Tôi nấu món gì thì ăn món nấy. Tôi cũng không mua cho con những bộ quần áo hàng hiệu hay những đôi giày thể thao hàng hiệu. Tôi từ trước tới nay chưa hề làm qua những việc như thế. Tôi mua cho quần áo gì thì mặc quần áo đó. Tôi nấu món gì thì ăn món đó. Chúng ta thấy trong một số gia đình hiện nay có duy nhất một đứa con, thế là nuôi đứa con này như là nuôi một tiểu hoàng đế, hay là một tiểu công chúa không khác. Cả một nhà đều vây quanh một đứa trẻ, hễ đứa trẻ muốn ăn gì thì người lớn dù bận chuyện gì cũng đều lấy cái quyết định của đứa trẻ để mà làm quyết định của cả nhà. Tôi cảm thấy đây là một sự việc rất đáng tiếc. Người Trung Quốc tuổi thơ ấu là tiếc phước, quí trọng hạnh phúc, quý trọng phước báu; thanh niên và trung niên đều phải tu phước, phải tạo phước; đến khi về già mới là hưởng phước. Cho nên chúng ta không nên cho con trẻ quá nhiều sự hưởng thụ, phải khiến cho cuộc sống của chúng trải qua được một cách bình thường là được rồi. Con trẻ có thể chịu khó trong cuộc sống, thì trong học tập mới có thể chịu khó, trong sự nghiệp mới có nghị lực mà đạt được thành tựu.
Tôi cũng từ việc không dùng bất kỳ hình thức vật chất nào để khích lệ con mình học tập đạt điểm cao, nhưng tôi có một một phương pháp để khuyến khích. Tôi rất là chú ý trong lớp của con học sinh nào ưu tú, chỉ cần bạn học nào trong lớp của Mao Sâm ưu tú nhất thì chúng tôi liền mời bạn đó đến nhà chúng tôi làm khách. Tôi chuẩn bị nào là trái cây, thức ăn, cơm trưa để mà tiếp đãi bạn đó. Đồng thời cũng mời luôn những người bạn thân cùng đến, mở một buổi tọa đàm học tập, cung cung kính kính mời những bạn học của Mao Sâm giới thiệu về học tập của mình. Nếu bạn nào giỏi tiếng Anh thì tôi mời bạn đó giới thiệu về việc học tiếng Anh, nếu bạn nào giỏi môn Ngữ văn thì mời bạn đó giới thiệu về việc học Ngữ văn, học toán giỏi thì mời giới thiệu về việc học tập môn toán. Vì bạn học này sau khi đến nhà thì nhận được sự cung kính, Mao Sâm nhìn thấy được nên cũng rất chú ý lắng nghe những kinh nghiệm của mọi người. Sau đó thì cũng rất là cố gắng, liền âm thầm mà gắng sức. Không bao lâu thành tích học tập đã vượt qua được người bạn học này. Phương pháp này rất là khéo, có thể khích lệ cái tinh thần tự cường tự lập của trẻ. Cho nên tôi cảm thấy các vị phụ huynh chúng ta không thể dùng tiền bạc vật chất để mà khích lệ việc học của trẻ. Người Trung Quốc có nói: “Trọng thưởng tất sẽ có người hùng”, câu này không thể dùng trong gia đình được. Chúng ta mà dùng tiền bạc và vật chất để kích thích việc học cho con trẻ, như vậy thì đã khiến cho trẻ nhận lấy cái ô nhiễm của tiền bạc. Điều này xin các vị phụ huynh chúng ta nhất định phải chú ý. Đệ Tử Quy nói: “Thấy người tốt, nên sửa mình; Dù còn xa, cũng dần kịp”. Cho nên chúng ta không thể dùng vật chất kích thích hay dùng việc trọng thưởng để kích thích con cái học tập. Đệ Tử Quy còn nói: “Chỉ đức học, chỉ tài nghệ; không bằng người, phải tự gắng”. Cho nên chúng ta làm mẹ phải giỏi về việc dẫn dắt con cái làm sao học tập ở những người bạn học ưu tú để tự cường tự lập.
Hơn nữa giáo dục gia đình cũng phải chú ý việc bồi dưỡng cho con cái năng lực độc lập hoàn thành công việc.
Tôi còn nhớ năm Mao Sâm tốt nghiệp trung học, khi đó đang chờ dán bảng danh sách kết quả thi trung học. Đúng ngay lúc đó tôi nhận được một thông báo dự hội nghị đi đến Hàng Châu tham gia cuộc họp nghiên cứu thảo luận về nghệ thuật quản lý và quan hệ công cộng cao cấp. Khi đó đơn vị của tôi, công việc của tôi rất là bận rộn, không thể đi, mà công việc của đơn vị cũng không thể nào để người khác đi được. Tôi nghĩ cái tờ thông báo dự hội nghị này thật không thể lãng phí, tôi muốn bảo con trai tôi đi, bảo con trai tự mình lo liệu chi phí đi luyện tập một chuyến xem sao. Cho nên tôi nói với Mao Sâm: “Con không phải là thường nói với mẹ rằng nên cho cơ hội để con rèn luyện sao? Cơ hội lần này đến rồi. Bây giờ có một cuộc hội nghị con phải đi tham gia, hội nghị này ở Hàng Châu. Con phải chuẩn bị tốt hành trang, chuẩn bị một quyển sổ ghi chép, thay cho mẹ đi dự cuộc hội nghị này”. Mao Sâm nghe xong liền ngây người ra, vì phải đi tham dự hội nghị cao cấp như vậy. Tôi nói tiếp, lần hội nghị này đều là giáo sư, học giả của các nơi, còn có một số chuyên gia về mặt quản lý và quan hệ công cộng. Tôi nói: “Sau khi con đi về, vì con thay mẹ đi mà, con phải ghi chép cho tốt, ngoài ra con phải khiêm tốn mà thỉnh giáo các vị giáo sư và chuyên gia. Sau khi con trở về lại Quảng Châu thì truyền đạt lại ý nghĩa chủ yếu của hội nghị cho mẹ. Đến lúc đó mẹ sẽ mời tất cả bạn bè thân thích tụ họp lại để lắng nghe báo cáo của con”. Mao Sâm cảm thấy được cái trách nhiệm này, cũng thấy là một vinh dự. Cậu ấy tự mình làm tốt công tác chuẩn bị, đi đến trạm xe lửa mua vé, chuẩn bị hành lý. Tôi dặn dò rằng: “Con đến Hàng Châu phải nhớ xuống tàu, vì tàu lửa này đi qua Hàng Châu vào ban đêm. Nếu như con mà quên xuống thì xem như đã bỏ qua cơ hội dự cuộc họp này”. Sau đó thì thả tay để cho Mao Sâm lên đường đi rèn luyện. Sau bảy-tám ngày thì Mao Sâm đã bình an trở về nhà. Cậu ấy đã thích thú mà kể lại một mạch việc ở Hàng Châu và Thượng Hải, tình hình làm việc của hội nghị. Chủ nhật tôi mời hết bạn bè thân của mình đến, mời luôn các bạn thân trạc tuổi với Mao Sâm đến, phụ huynh của các bạn đó cũng đều đến để nghe báo cáo của Mao Sâm về tinh thần của cuộc hội nghị quản lý và quan hệ công cộng cao cấp toàn quốc. Khi đó Mao Sâm mở quyển sổ ghi chép ra. Quyển sổ ghi chép này cũng được ghi chép rất rõ ràng tường tận, làm được rất tốt. Ngoài ra Mao Sâm còn báo cáo từng điều từng điều một rất thứ tự mạch lạc. Tôi ngồi bên cạnh nghe rất là thích thú, mọi người nghe đều rất là thích thú. Tôi ở bên cạnh tỉ mỉ mà quan sát, tôi cảm thấy khí chất của con trai mình tương lai có thể dạy trong trường đại học, có thể làm một giáo sư, tôi cảm thấy cần phải bồi dưỡng huấn luyện con mình thành một giáo sư. Đây không những là công việc của tôi mà còn là công việc rất quan trọng nữa. Việc nuôi dạy con cái của người mẹ là một sự nghiệp quan trọng hơn cả!
Mao Sâm đã dựa vào cái thành tích học tập ưu tú của mình để thi vào Trường đại học Trung Sơn chuyên ngành Mậu dịch Tài chính Quốc Tế. Lúc đó chính là tâm nguyện thứ nhất của Mao Sâm. Chuyên ngành này khi đó thi vào đại học là chuyên ngành có điểm số xét tuyển cao nhất. Sau khi thi xong đại học thì được 18 tuổi. Mao Sâm đã viết cho tôi một tấm thiệp, còn đề là “Thiệp Cảm Ơn”. Sau đây xin được chia sẻ với mọi người:
“Mẹ kính yêu!
Nhớ lại những việc đã qua, mẹ đã bao năm nuôi dạy mới khiến con có thể được học ở Trường đại học Trung Sơn – nơi học tốt nhất ở Lĩnh Nam này, khiến cho con được đào tạo ngành học tốt nhất ở ngôi trường này. Với lòng biết ơn, con muốn dùng một câu thơ để biểu đạt cái lòng biết ơn này:
Lời nào tâm tấc cỏ,
Báo đáp nắng ba xuân”.
Phía sau tấm thiệp còn kèm theo một bài thơ ngắn. Bài thơ này là do một nhà thơ hiện đại Trung Quốc viết, rất là có ý nghĩa. Bài thơ này có tựa đề là “Tình yêu của mẹ”
Tình Yêu Của Mẹ
Chúng ta cũng yêu mẹ,
Nhưng không bằng mẹ yêu chúng ta.
Tình yêu của chúng ta là con suối nhỏ,
Tình yêu của mẹ là đại dương bao la.
Hạnh phúc của chúng ta,
Là nét tươi vui trên gương mặt mẹ.
Đau khổ của chúng ta,
Là nỗi đau buồn sâu thẳm trong đôi mắt mẹ.
Chúng ta có thể đi rất xa rất xa,
Nhưng cũng không vượt ra tâm hồn bao la rộng lớn của mẹ…
Về văn hóa đời sống của giáo dục gia đình chúng tôi thường tổ chức hội họp về học tập giáo dục gia đình, còn tổ chức các chuyến du lịch song song với những hoạt động như là có hiếu với cha mẹ và làm vui cha mẹ. Những đứa trẻ này đều rất khát vọng được trèo núi cao vượt sông rộng, xem cho thỏa cái non sơn gấm vóc của tổ quốc, mở rộng tầm nhìn và tấm lòng mình để bồi dưỡng cái tình cảm của chủ nghĩa yêu nước. Tôi rất muốn đưa con đi tham dự những lần du lịch như vậy. Nếu như tôi quá bận rộn thì tôi gửi Mao Sâm cho bạn thân của tôi hoặc là người nhà của bạn tôi để cùng đi tham dự hoạt động này. Có một lần Mao Sâm đi du lịch cùng với cả nhà của người cậu, lúc đó Mao Sâm mới 13 tuổi. Tôi cảm thấy một đứa trẻ 13 tuổi nếu sau khi xa cha mẹ thì sẽ càng hiểu chuyện hơn. Mao Sâm cùng với cả nhà của cậu đi đến Tứ Xuyên chơi một chuyến. Trong chuyến đi đã viết cho chúng tôi một bức thư. Bức thư này hiện còn lưu giữ trong tủ đựng kỹ vật văn hóa của gia tộc chúng tôi. Bây giờ chúng tôi lấy ra để chia sẻ với mọi người một chút, xem cậu con trai 13 tuổi này sau khi xa gia đình thì cảm nhận cuộc sống như thế nào?
“Ba mẹ kính yêu!
Chào ba mẹ! Đã năm ngày không được gặp ba mẹ rồi, ba mẹ có khỏe không? Hiện giờ con và mọi người đều đã đến My Sơn một cách an toàn rồi, xXin ba mẹ cứ yên tâm!
Chúng con ngồi tàu nhanh từ Quảng Châu đi Tây An, đi tham quan một số danh lam thắng cảnh như là Lầu Chuông, Đại Nhạn Tháp, khiến cho chúng con được mở rộng tầm mắt. Chúng con ở một đêm trong lữ xá tại Tây An. Hôm sau thì ngồi tàu nhanh thẳng đến Thành Đô, chịu đựng hết một đêm trên xe lửa. Sau khi đến Thành Đô, chúng con đã ăn những món nổi tiếng của Thành Đô như là Vịt quay họ Trương, Bánh trôi nước họ Lai, chúng con cũng nếm cả những món thịnh soạn khác nữa. Đến 8 giờ tối thì chúng con đã tới My Sơn. Nghĩ lại, từ Quảng Châu chúng con tới My Sơn, lúc trên xe lửa mỗi lúc một gian khổ hơn. Từ Quảng Châu đi Tây An là ghế giường nằm, từ Tây An đi Thành Đô là ghế ngồi, từ Thành Đô mà đi My Sơn thì đứng.
Chúng con đến My Sơn thì chuẩn bị đi đến những thắng cảnh du lịch để chơi như là Công viên Tam Tô, Lạc Sơn Đại Phật, Núi Nga Mi,… Nói tóm lại là chúng con đi chơi nhất định là sẽ rất vui.
Chúc ba mẹ công việc thuận lợi, sức khỏe dồi dào!
Con trai của ba mẹ, Mao Sâm
Ngày 25-07-1986”.
Từ bức thư này chúng ta có thể thấy được vài vấn đề. Thứ nhất là thấy được đứa trẻ 13 tuổi này sau khi xa cha mẹ thì rất là lưu luyến cha mẹ, rất là nhớ cha mẹ, cho nên chủ động viết thư cho chúng tôi. Cái tình cảm thân thương đối với cha mẹ này là vượt ra ngoài giấy bút. Thứ hai là chúng ta có thể thấy, đứa trẻ khi gặp phải khó khăn trong chuyến đi, bắt đầu là giường nằm sau đó là ghế ngồi, sau nữa là đứng, tuy hoàn cảnh trong chuyến đi trở nên gian khổ nhưng mà vẫn cứ vui vẻ tiếp nhận. Đây chính là cái tinh thần mà chúng ta cần phải dạy cho con cái, chính là mãi mãi lạc quan mà đương đầu với cuộc sống.Điều thứ ba, chúng ta có thể thấy là đứa trẻ này khi đi du lịch cùng với một gia đình khác mà có thể chung sống hòa thuận với các anh chị em họ, cũng chính là tôn trọng người cậu và người mợ. Cho nên mới nghe người cậu phản ánh rằng, Mao Sâm trên đường đi đều rất là nghe lời mà tính tự lập cũng rất cao, tự lo cho bản thân rất tốt, bên cạnh đó trong suốt chuyến đi bất luận là gặp phải tình huống như thế nào thì Mao Sâm cũng vui vẻ thích thú, chí khí mạnh mẽ. Cho nên đối với việc dạy dỗ con cái, tôi có một kinh nghiệm, đó là có khi chúng ta phải để cho con cái rời xa cha mẹ, để chúng rời xa cha mẹ mà tập luyện một chút, chúng sẽ trưởng thành nhanh hơn, mà cũng càng trở nên quí trọng tình thương yêu của cha mẹ hơn.
Hiện nay chúng ta đa số đều là gia đình một con. Giáo dục con cái không chỉ là sự việc mẹ với con, con với mẹ, đơn giản như vậy. Chúng ta cần phải mở rộng ra với ông bà nữa, phải làm cái việc hiếu thảo với ông bà cha mẹ và làm vui ông bà cha mẹ. Con trẻ trong những công việc hiếu thảo và hài lòng cha mẹ luôn luôn nâng cao phẩm chất đạo đức của mình rất nhanh. Mao Sâm có ông nội bà nội, còn có ông ngoại bà ngoại, cả thảy bốn người ông bà. Trong những người lớn tuổi đều có tố chất của văn hóa truyền thống Trung Quốc, nhất cử nhất động của người lớn, một câu nói dặn dò của người lớn cũng có tác dụng giáo dục và nhắc nhở đối với con trẻ, cho nên những người cha mẹ trẻ chúng ta nhất định cần phải quan sát những cái ưu điểm của người lớn nhiều hơn nữa, tán thán ưu điểm của những người lớn này, như vậy mỗi lần con trẻ và ông bà tiếp xúc với nhau thì nó sẽ tập trung sức chú ý của mình vào những ưu điểm đó. Những đứa trẻ thường tiếp xúc với ông bà thì tính cách đều rất là tốt, đều rất là rộng rãi, rất ôn hòa, sẽ không lập dị lẻ loi mà đều rất là có tình cảm và yêu mến cuộc sống.
Chúng tôi đưa Mao Sâm về quê thăm ông bà nội. Chúng tôi tán thán ông bà cụ. Ông bà tuy không biết văn hóa là gì, nhưng chúng tôi tán thán ông bà cụ, tán thán ông bà cần cù, tiết kiệm. Chúng tôi học ông bà phương pháp làm đồng án, học kinh nghiệm sống của ông bà. Về thành phố chúng tôi đi thăm ông ngoại bà ngoại. Ông bà ngoại đều là người trong ngành giáo dục, thế là chúng tôi tán thán cái trình độ văn hóa của ông bà. Chúng tôi học tập ông bà về lịch sử, về văn hóa, về giáo dục. Cho nên ở người lớn có những cái chúng ta học mãi cũng không hết. Mỗi lần chúng tôi đưa con đi gặp ông bà đều là một lần giáo dục đời sống. Mỗi lần gặp ông bà thì phải cho con ăn mặc quần áo chỉnh tề, phải mua một ít quà. Con trẻ cũng nhìn thấy là phải mua quà cho ông bà. Hơn nữa còn phải ghi nhớ ngày sinh của ông bà, đặc biệt là phải chuẩn bị tiết mục để đi gặp ông bà. con nói gì khi gặp ông bà, con sẽ đọc bài thơ gì. Cho nên trẻ rất là khẩn trương, rất là vui khi làm những công việc chuẩn bị này. Khi cha tôi được 80 tuổi thì Mao Sâm đã viết một bài thơ tên là “Lão Nhân Tụng” để dâng lên cho ông mình. Bây giờ cũng xin được chia sẻ cùng mọi người:
Bài thơ bày tỏ tấm lòng với người ông 80 tuổi:
Lão Nhân Tụng
Ông kính yêu của chúng con,
Đã trải qua tám mươi mùa xuân,
Ông trải qua cuộc sống bao gian nan,
Chấp nhận bao phong ba dồn dập,
Gian khổ đã tẩy trắng mái tóc ông,
Sương gió đã khắc lên trán ông những vết tích.
Vậy mà, ông lại không ngừng lại với những thành tích đã qua, trái lại luôn vì con cháu đem đến cho những món ăn ngon, vẫn cứ đội cơn mưa như trút nước, đến nhà của đứa cháu sắp thi vào trung học, để mà tiến hành quyết sách và tham mưu, tuy đã già, phải chống gậy đi, nhưng chưa hề chùn bước, ông chẳng cần chúng con ở bên hầu hạ, trái lại luôn thôi thúc chúng con tự làm mới mình, kính thích chúng con phấn đấu tiến lên.
Ông ơi! Ông là một bộ văn hiến quý giá,
Thân thể tuy có già yếu,
Như nét chữ mờ nhạt,
Nhưng những hàm ý sâu bên trong,
Thật không có cách phai mờ.
Ông ơi! Ông là ngọn đèn biển chỉ rõ phương hướng cho hậu sinh, hướng dẫn chúng con tránh đá ngầm, dũng cảm tiến lên!
Ông ơi! Ông là sợi dây gắn bó các thành viên trong gia đình, duy trì sự hữu ái, hài hòa trong tình thân.
Chúng con sẽ tôn kính và yêu quý ông, không chỉ là tình cảm mà còn là cảm niệm với cái vất vả cực nhọc cả một đời, là lòng yêu thương, là thể hiện của tình cảm đạo nghĩa.
Nhà tiên tri Mosey của Ki Tô giáo từng nói:
“Ai khiến ông bà rơi nước mắt,
Ta sẽ làm mặt đất rung chuyển!”
Hôm nay, chúng con sẽ đem thành tích tốt nhất của mình dâng lên cho ông được vui, để ông luôn mở miệng tươi cười, khỏe mạnh sống lâu!
Cháu ngoại Mao Sâm, Kính thư!
Âm lịch 15-06-1990”.
Chúng ta phải nên khiến cho ông bà thường nở nụ cười. Mao Sâm cũng đã từng làm như vậy. Tuy ông bà ngoại đã không còn nhưng ông bà nội thì vẫn còn. Sau khi Mao Sâm được đi làm thì đã mua một căn nhà ở thành phố Quảng Châu cho ông bà nội ở, đón ông bà nội từ dưới quê lên để hai ông bà được an dưỡng tuổi già. Hai ông bà rất là vui thích, mỗi lần nhìn thấy Mao Sâm thì thật là cười thật là tươi, vui vẻ tự đáy lòng. Cho nên chúng ta mãi mãi phải cảm ơn ông bà, mãi mãi phải tôn kính và phụng dưỡng ông bà.
Khi mẹ tôi 82 tuổi thì Mao Sâm cũng đã viết một lời chúc mừng rất sinh động. Hôm nay do điều kiện thời gian nên chúng tôi xin được chia sẻ vào lần tới. Xin cảm ơn mọi người!
CHỦ ĐỀ THẾ GIỚI HÀI HÒA THUẦN TỊNH THUẦN THIỆN
BÁO CÁO 30 NĂM GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
MẸ HIỀN CON HIẾU (tập 2)
Cô giáo: Triệu Lương Ngọc
Giáo sư: Chung Mao Sâm
Ngày 30 tháng 06 năm 2007
Giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền