Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

NGƯỜI KHÔNG LO XA ẮT CÓ HỌA GẦN

Ngạn ngữ nói: “Người không lo xa, ắt có họa gần”. Ý nghĩa của câu nói này rất sâu. Như thế nào thì gọi là lo xa? Bạn có nghĩ đến lúc bạn già hay không, có nghĩ đến lúc bạn bệnh hay không, có nghĩ đến lúc bạn chết hay không, có nghĩ đến đời sau hay không? Nếu con người có thể nghĩ đến việc này thì mới gọi là lo xa.

Chúng ta phải hiểu rõ những vấn đề này. Chúng ta phải làm thế nào mới có cách nghĩ chính xác? Nếu như có thể dạy cho chúng ta ngay trong một đời này không già, không bệnh, không chết thì đó gọi là chánh tri chánh kiến. Không nên cho rằng tương lai chúng ta sẽ già, ta phải chuẩn bị một ít tiền, nghĩ cách để tương lai dưỡng già, “tương lai tôi phải có bệnh, cho nên cần phải có một khoảng tiền để làm phí thuốc thang; tôi còn phải chết; khi chết còn phải mai táng, v.v…”, còn phải dự bị một số việc. Cách nghĩ này không phải là “nghĩ xa lo gần”, bạn đã hoàn toàn sai rồi. Hiện tại bạn vẫn chưa già, bạn đã chuẩn bị già thì bạn sẽ già rất nhanh, vì bạn đã chuẩn bị rồi mà. Hiện tại bạn không có bị bệnh, bạn đã chuẩn bị phí thuốc thang, ở nơi đó chờ bị bệnh thì làm sao mà bạn không bệnh chứ? Thậm chí nghĩ đến tương lai khi chết, còn phải tìm một nơi phong thủy tốt, vậy thì bạn sẽ chết rất nhanh. Thảy đều sai hết!

Bạn thật sự có nghĩ đến những sự việc này thì phải mau tu học Đại thừa. Phật pháp Đại thừa Kinh Vô Lượng Thọ chính là dạy chúng ta làm thế nào không già, làm thế nào không bệnh, làm thế nào không chết, dạy chúng ta ba vấn đề lớn này. Phật pháp đích thực vì chúng ta giải quyết cứu cánh viên mãn. Vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải là chết, mà là sống mà ra đi.


(Phật thuyết Vô Lượng Thọ giảng giải - tập 30 - Lão Pháp Sư Tịnh Không giảng)

NHẪN

Thông thường mỗi khi có tranh chấp, nhất định là do chấp trước thành kiến của mình, tự cho mình là đúng. Nếu hai người đều cho là mình đúng nên mới có sự tranh chấp, nếu anh ấy cho là đúng, tôi không tự nghĩ mình là đúng, sẽ không có chuyện gì xảy ra. Họ tranh còn tôi nhường, tranh cãi chẳng còn dấy lên. Đánh nhau thì phải do hai người đánh đấm, nếu một người đánh, một người nhường, chẳng còn đánh nhau nữa! Mắng chửi cũng vậy, hai người chửi mắng nhau thì mới ầm ĩ, một người mắng, một người nhịn thì người kia không thể tiếp tục chửi mắng nữa. Từ đây cho thấy, hai người đánh lộn hoặc chửi mắng nhau, chứng tỏ hai người ngang hàng; nếu một người cao, một người thấp sẽ chẳng thể cãi nhau được. Người ở trình độ cao hơn sẽ nhường, sẽ không tranh cãi nữa. Chỗ này chúng ta phải học hỏi, hễ học được thì trong đời này sẽ có nhiều hạnh phúc. Khi chúng ta muốn cùng người khác cãi vả, tự mình phải sanh lòng hổ thẹn. Vì sao? “Tôi cũng giống như họ vậy”, không giống nhau thì làm sao cãi vả cho được!

Vì thế, đừng cho mình là đúng, đừng nghĩ rằng mình rất tài giỏi, chớ nghĩ mình là thông minh nhất, [nếu nghĩ] như vậy sẽ dẫn đến thị phi, sẽ dính vào nhiều việc phiền phức. Giống như trong xã hội hiện thời thường nói, chúng ta phải giữ lấy náu mình(!), như vậy mới là tốt! Chớ nên tranh cãi với kẻ khác. Nhất là khi học Phật, khởi sự từ đâu? “Chẳng tranh với người, chẳng cầu nơi đời”. Vô tranh vô cầu là buông xuống hết thảy, hết thảy đều không chấp trước, niệm Phật vãng sanh không còn chướng ngại. Niệm Phật không thể vãng sanh là vì chúng ta vẫn còn có tranh giành, chúng ta vẫn còn đòi hỏi, còn tranh còn cầu thì chính mình chịu thiệt thòi, thiệt thòi quá lớn! Không thể vãng sanh thì, vẫn phải tiếp tục trôi lăn trong lục đạo luân hồi, vậy thì phiền phức to lớn hay không? Thiệt thòi quá to lớn, vì thế, trước hết phải học “vô tránh” (không tranh). Một đệ tử đức Phật là tôn giả Tu Bồ Đề đối với hết thảy người, sự, vật đều chẳng tranh giành, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thường khen ngợi Ngài, Ngài đã đắc Vô Tránh Tam-muội. Thế Tôn tán thán Ngài, biểu dương Ngài là khuôn mẫu, dạy chúng ta nên học theo Ngài, dụng ý là ở chỗ này.

(trích Nhìn Thấu Là Trí Huệ Chân Thật - phần 8 - lão Pháp Sư Tịnh Không giảng)

Làm Cách Nào Để Không Dùng Thuốc Trừ Sâu Mà Rau Trái Vẫn Xanh Tốt?

Chúng tôi cũng đã làm thí nghiệm mười năm, chắc cũng khoảng mười một mười hai năm. Chúng tôi trồng rau xanh, không dùng phân bón, cũng không dùng thuốc sâu. Ban đầu làm thí nghiệm, là một vị đồng tu của Malaysia trồng một vườn rau ở Cổ Tấn. Năm thứ nhất những thứ rau trồng được hết 95% bị sâu ăn, không dùng phân bón, không dùng thuốc sâu. Tuyệt đối không sát sanh, sâu ăn cũng được. Năm thứ hai trồng lại, sâu lễ phép hơn, chừa lại khoảng một nữa. Sâu ăn một nữa, lưu lại một nữa. Khi tôi đến đó tham quan, hình như là năm thứ năm, năm thứ năm hoặc là năm thứ sáu. Khi tôi đến tham quan họ nói, hiện nay rau bị sâu ăn là 5%, 95% để lại cho chúng tôi, khó được! Quý vị không sát hại chúng, chúng không hại quý vị.

Năm 2000 tôi đến Úc Châu, Úc châu đất rộng người ít, đất đai rất rẻ. Tôi ở nông thôn, cách thành phố khoảng 15 phút đi xe, ở nông thôn. Tôi mua luôn hai miếng đất bên cạnh, nên vườn rất rộng, tất cả có 28 mẫu anh. Một mẫu anh bằng sáu mẫu của TQ, tất cả có khoảng hơn 170 mẫu TQ, chúng tôi khai thác nó làm vườn rau.

Lần này chúng tôi trồng rau đã thương lượng với sâu bọ, chúng tôi vạch ra một khu nói với sâu bọ: Khu vực này là để dành cho quý vị, chúng tôi cũng dùng tâm để chăm sóc nó. Sâu bọ cũng rất biết nghe lời, chúng chỉ ăn ở khu vực này, rau bên kia cách một bờ ruộng chúng không hề động đến, rất hay! Chúng tôi đặt máy niệm Phật trong vườn rau, nên rau xanh đều nghe danh hiệu Phật A Di Đà mà sanh trưởng, rau mọc rất xanh tươi. Những người chuyên trồng rau đến tham quan đều khâm phục, hỏi chúng tôi: Quý vị trồng như thế nào? Trồng cách nào mà rau xanh tươi thế! Không có thuốc, cũng không có phân bón.

Vườn rất rộng nên chúng tôi cũng trồng cây ăn trái, trồng hơn 30 loại cây ăn trái. Chúng tôi cũng ra điều kiện với loài chim, chỉ định mấy cây, trái cây ở những cây đó quý vị có thể ăn, không chỉ định quý vị tuyệt đối không được động đến. Rất hợp tác! Sâu bọ và chim chóc cũng rất ngoan, khó tiếp xúc nhất là người, người rất ngoan cố. Đến sau cùng thì sâu bọ chim chóc, đến kiến gián đều biết nghe lời, chúng tôi sống với chúng rất hòa hợp, cùng nhau sinh tồn, không tổn thương lẫn nhau. Quý vị xem thời gian mười năm, đây không phải ngẫu nhiên, thời gian dài như vậy. Về sau khắp nơi chúng tôi đều dùng phương pháp này.

Trích Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Lão pháp sư Tịnh Không

VỢ CHỒNG CON KHÔNG HÒA THUẬN, MẸ CHỒNG VỚI CON BẤT HÒA, CHỊ EM DÂU BẤT HÒA, CON SỐNG KHÔNG NỔI NỮA, CON MUỐN LY HÔN CÓ ĐƯỢC KHÔNG? COI THƯỜNG VIỆC LY HÔN THÌ HAI VỢ CHỒNG CÙNG ĐỌA ĐIẠ NGỤC.

Vợ chồng tại vì sao không hòa? Tỉ lệ ly hôn vì sao mà nhiều như vậy? Bạn chỉ cần xem tỉ suất ly hôn của xã hội nào nhiều, thì quốc gia đó sắp phải suy vong. Cũng giống như xem một người, trên thân của người này có rất nhiều tế bào bị hỏng thì con người này sắp phải chết. Nếu tỷ suất ly hôn của xã hội vượt quá 50% thì nguy cơ sẽ không nghi ngờ,người xưa chúng ta nói: “Nhà không ra nhà, nước không ra nước”. Đây không phải là chuyện đùa, không phải là chuyện hài kịch.

Do đây có thể biết, vợ chồng xem thường việc ly hôn thì hai người đều sẽ đọa địa ngục. Đây là phán đoán của tôi. Vì sao vậy? Họ nguy hại xã hội, nguy hại hòa bình thế giới, cái tội này nặng cỡ nào. Đây là thật, không phải là giả. Nếu như muốn ly hôn, ly hôn thì không bằng không kết hôn.

Trước khi bạn kết hôn, tôi thường nói, hai bên đều xem thấy chỗ tốt của đối phương, cảm thấy rất đáng yêu, nhưng sau khi vừa kết hôn xong, đôi bên đều xem thấy khuyết điểm của nhau. Vậy thì phiền phức lớn rồi, chính là ở khoảng một niệm này.

Cho nên, Phật Bồ Tát dạy chúng ta “vĩnh viễn ngày đêm thường niệm thiện pháp, tư duy thiện pháp, quán sát thiện pháp”. Nếu bạn có thể ghi nhớ câu này, vợ chồng các vị sẽ hảo hợp bách niên giai lão. Vì sao vậy? Chỉ xem chỗ tốt của đối phương, không xem khuyết điểm của đối phương, vậy thì hết việc rồi.Chính ngay ở khoảng một niệm này. Một niệm này giác ngộ thì vĩnh viễn hảo hợp dài lâu. Thường xuyên nhường nhịn lẫn nhau thì làm gì có việc gì xảy ra? Một niệm này không chuyển đổi lại, họ là mê hoặc điên đảo. Trên Kinh Phật nói mê, mê ở chỗ nào vậy? Điên đảo ở chỗ nào vậy? Bạn phải biết điên đảo ở chỗ nào, mê ở chỗ nào.Vợ chồng là một quan hệ rất mật thiết.

Mở rộng đến gia đình, vì sao ở trong nhà này, rõ ràng nhất là mẹ chồng nàng dâu bất hòa, chị em dâu bất hòa, nguyên nhân này do đâu? Đều là một đạo lý: “Chuyên xem khuyết điểm của người khác, không xem ưu điểm của người khác”, cho nên họ mới bất hòa.

Mở rộng ra đến bạn bè, người thân của bạn, đồng học đồng sự của bạn, nếu như đều có thể tuân thủ giáo huấn của Phật, bạn nghĩ xem,thế giới này mỹ hảo cỡ nào! Việc này không phải là làm không được.Cư sĩ Hứa Triết đã làm được rồi.

Bạn thấy, cụ Hứa Triết ở nơi đây nói với chúng ta, ngay trong đời của bà, tuy đã một trăm tuổi rồi nhưng không hề ghét bỏ bất cứ người nào; bà thấy người đều là người tốt, việc đều là việc tốt. Hôm đó, cư sĩ Lý Mộc Nguyên hỏi bà: “Nếu như bà xem thấy có người ác, có việc không tốt, thì bà có cách nhìn thế nào?”. Bà nói: “Tôi thấy người ác, việc xấu cũng giống như đi ở trên đường vậy, xem thấy người đi qua đi lại vậy, không nhớ một người nào, không hề để trong lòng”. Thí dụ này hay. Mỗi ngày các vị đi lại ở trên đường, người đi qua đi lại trên đường bạn có nhớ ai không? Họ ở bên cạnh nói chuyện, bạn cũng nghe không được, bạn ghi nhớ được câu nói nào không? Một câu cũng không ghi nhớ. Thí dụ này vô cùng hay, chính là ác tâm, ác ngôn, ác hạnh của mọi người thảy đều không nên để ở trong tâm, không hề có việc gì, cho nên tâm của bạn thật thanh tịnh, tâm của bạn thật lương thiện.

Tâm thanh tịnh, tâm lương thiện là bổn tánh của bạn, là Phật tâm, vậy bạn làm sao mà không thành Phật được? Vì sao chính mình lại muốn làm hại chính mình? Đem cái tốt sở trường của người ta quên hết sạch trơn, chuyên môn ghi nhớ chỗ xấu của người, chuyên môn xem thấy ác niệm ác hạnh của người khác, biến mình thành cả một thân tội ác, nuôi thành ác tâm của chính mình. Then chốt đều ở ngay khoảng một niệm này.

Trích Kinh Vô Lượng Thọ Giảng Giải - Tập 180.
Pháp Sư: HT. Tịnh Không.
A DI ĐÀ PHẬT_()_

VẪN CÒN TÂM THAM THÌ TÂM BỒ ĐỀ KHÔNG CÓ

Phạm vi của tham cầu thật là quá rộng. Nói tóm lại, khởi tâm động niệm có vì bản thân thì trong đây liền có tham cầu. Cho nên tham cầu đã hàm chứa tất cả ác nghiệp, nó là gốc rễ của tất cả ác nghiệp, căn nguyên là ở chỗ này. Đầu tiên Phật dạy chúng ta xa lìa tâm tham, không có tâm tham cầu mà hành bố thí. Đây là chư Phật Bồ-tát làm, một mảy may tâm tham cầu cũng không có, niệm niệm vì chúng sanh, nhất định không phải vì mình. Nếu có một mảy may tâm tham cầu thì chắc chắn không sanh trí tuệ. Phiền não đoạn sạch mới sanh trí tuệ. Có tâm tham cầu thì dù có học nhiều đi nữa, nhà Phật nói là “Thế trí biện thông”, người này không sanh trí tuệ. Trí tuệ là từ trong tâm thanh tịnh sinh ra. Ở trong tâm thanh tịnh hoàn toàn không có tham sân si mạn. Chúng ta cầu trí tuệ thì phải biết, nếu chúng ta không xả, thì tâm thanh tịnh nhất định không có được. Không có tâm thanh tịnh thì bạn không có tâm bình đẳng, cũng không có tâm từ bi. Nhà Phật nói những danh từ này, danh từ nghe hay, bạn có thể luôn tụng ở cửa miệng, nhưng cảnh giới của bạn nhất định là cảnh giới phàm phu, bạn nhất định không thể khế nhập, hay nói cách khác, bạn giúp đỡ người khác có hạn.

Tại sao vậy? Vì giúp bản thân mình còn giúp không nổi, niệm Phật cũng không thể vãng sanh. Tại sao niệm Phật cũng không thể vãng sanh vậy? Vì bạn chưa có phát Bồ-đề tâm. Các bạn đã xem trong Phẩm Tam Bối Vãng Sanh: “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Tâm Bồ-đề là không có tham sân si. Có một mảy may ý niệm tham sân si là không phải tâm Bồ-đề, bạn vẫn là tâm luân hồi, bạn vẫn là tâm phàm phu. Tâm luân hồi thì tạo nghiệp luân hồi. Tâm luân hồi tu tích tất cả thiện pháp, thì ở trong tam giới lục đạo hưởng phước, phước báo đó thật sự là trên thì làm vua trời, dưới thì làm người quyền quý nhân gian, bạn chỉ có thể được quả báo này. Chúng ta huân tu Phật pháp đã lâu, hiểu rất rõ chân tướng sự thật này, trong tam giới cho dù làm đến Ma-hê-thủ-la thiên vương vẫn chưa thể thoát khỏi luân hồi, hay nói cách khác, đây không phải biện pháp cứu cánh. Cái thù thắng của Phật pháp chính là cứu cánh viên mãn. Phật Đà chỉ có thể chỉ dạy chúng ta, chứ không có cách gì tu hành thay cho chúng ta được. Phật Đà gia bị cho chúng sanh, bảo hộ chúng sanh chính là ở dạy học.

(trích Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh - tập 43 - Pháp sư Tịnh Không giảng)

KHÔNG THẤY LỖI THẾ GIAN

Đến khi nào chúng ta “không thấy lỗi thế gian”. Thế gian là tất cả người, sự và vật. Người là thế gian hữu tình của chúng ta, là hoàn cảnh đời sống nhân sự của chúng ta. Sự và vật là hoàn cảnh vật chất. Ở trong tất cả hoàn cảnh này, chúng ta không nhìn thấy ác, chỉ thấy thiện chứ không thấy ác, đó chính là Đại sư Huệ Năng nói: “Nếu người chân thật tu đạo, không thấy lỗi thế gian”. Ở trong tâm vẫn còn thị phi nhân ngã, đây không phải người chân thật tu đạo. Thị phi nhân ngã từ đâu mà có vậy? Là từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Phật thường hay dạy chúng ta, người chân chánh tu đạo phải buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước buông xả rồi, chính là trong kinh A Di Đà nói: “Nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn này mới có thể hiện tiền, công phu niệm Phật mới có thể thành tựu, chắc chắn vãng sanh bất thối thành Phật. Từ đó cho thấy, chúng ta vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vẫn còn thị phi nhân ngã, phải biết đây là chướng ngại trên đường Bồ-đề của mình.

Quí vị nghe xong những lời này, có lẽ lại phát sinh vấn đề ngay. Thế gian thật sự có rất nhiều người ác, thật sự gây phiền phức, chúng ta gặp họ thì phải làm sao? Chúng ta chỉ thấy họ thiện, họ thấy ta bất thiện, ta không trêu chọc họ, họ đến kiếm chuyện với ta, nếu chúng ta rơi vào trong hoàn cảnh này thì phải làm sao? Phật dạy chúng ta đoạn phiền não, khai trí tuệ. Thế nào là đoạn phiền não vậy? Phần trước nói, thường niệm, tư duy, quán sát thiện pháp thì phiền não sẽ đoạn hết thôi. Phiền não đoạn hết thì trí tuệ hiện tiền. Ở trong hoàn cảnh đời sống, bạn có trí tuệ cao độ, bạn có nghệ thuật cao độ tự nhiên bạn có thể tránh khỏi. Mặc dù có đủ thứ chướng nạn nhưng trên thực tế không thể chướng ngại được bạn, cũng không thể hại được bạn. Ở trong tất cả thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, bạn chắc chắn được pháp hỷ sung mãn, bạn có trí tuệ có thể ứng phó, chắc chắn là đôi bên cùng có lợi, tuyệt đối không phải là tổn người lợi mình, không có đạo lý này. Đây chính là Phật pháp.

 (trích Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh - tập 15 của Pháp sư Tịnh Không)

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2016

Tịnh Nghiệp Tam Phước - Lục Hòa - Tam Học - Lục Độ - Thập Đại Nguyện Vương


🌟 Tịnh Nghiệp Tam Phước:

1- Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.
2- Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.
3-Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

🌟 Lục Hòa:

1. Kiến hòa đồng giải.
2. Giới hòa đồng tu.
3. Thân hòa đồng trụ.
4. Khẩu hòa vô tranh.
5. Ý hòa đồng duyệt.
6. Lợi hòa đồng quân.

🌟 Tam Học: Giới học, Định học, Huệ học.

🌟 Lục Độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát nhã.

🌟 Thập Nguyện:

1 – Lễ kính chư Phật.
2 – Khen ngợi Như Lai.
3 – Rộng tu cúng dường.
4 – Sám hối nghiệp chướng.
5 – Tuỳ hỷ công đức.
6 – Thỉnh chuyển pháp luân.
7 – Thỉnh Phật trụ thế.
8 – Thường tuỳ Phật học.
9 – Hằng thuận chúng sanh.
10 – Hồi hướng tất cả.

Công khóa hằng ngày, y theo Tịnh Tu Tiệp Yếu, Bảo Vương Tam Muội Sám, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, cầu sanh tịnh độ, quảng độ hữu tình chúng sanh.

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2016

GIỮ TÂM THIỆN THẾ GIỚI HÒA BÌNH


- Cái gì gọi là định học? Định học là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Chúng ta ở trong cảnh thuận thì khởi tham ái, trong cảnh nghịch thì khởi sân hận là không thanh tịnh rồi, tâm thanh tịnh mất hết rồi, tâm địa bị ô nhiễm rồi. Tâm không bình đẳng, tâm cao thấp, tự cho mình đúng, cứ thấy người khác không bằng ta, tâm này của bạn không bình. Trong kinh Phật thường nói, tai nạn của thế gian là do đâu mà ra? Từ tâm người chiêu cảm. Đúng như cái gọi là “tất cả Pháp từ tâm tưởng sinh”.

- Tai nạn tự nhiên cũng từ tâm tưởng sinh. Quả đất, các vị đều biết, bề mặt chứa rất nhiều nước. Diện tích của toàn địa cầu, đất liền chiếm bao nhiêu, biển chiếm bao nhiêu? Diện tích đất liền chiếm chưa đến một phần tư địa cầu, biển chiếm đến ba phần tư. Nước có từ đâu? Từ tâm tham biến hiện. Trong kinh Lăng Nghiêm nói, trung tâm của Địa Cầu, lòng đất là lửa, độ nóng đến bảy – tám ngàn độ. Bảy – tám ngàn độ C trong lòng đất, cho nên thường hay có núi lửa bùng phát. Lửa từ đâu mà có? Từ sân hận. Khí quyển lưu động, phong tai, gió là do ngu si. Môi trường cư ngụ của địa cầu là do cảnh giới tham – sân – si biến hiện ra.

- Thế giới Tây Phương Cực Lạc vì sao đẹp đến như vậy? Đất ở đó là bằng Lưu ly (Lưu ly chính là Ngọc Tỉ Thúy mà chúng ta thường nói, là ngọc màu xanh, trong suốt, mát mẻ), từ bề mặt cho đến trong lòng. Trên thế giới đó không hề có tai nạn. Nguyên nhân do đâu? Do tâm thanh tịnh biến thành.

- Như vậy bạn mới hiểu được, thế giới mười phương không giống nhau. Vì sao không giống nhau? Do sự tu dưỡng của chúng sanh cư ngụ trên địa cầu đó khác nhau. Cõi nước của Chư Phật Bồ Tát, Pháp thân Đại sĩ là pháp giới nhất chân. Pháp giới nhất chân là do giới – định – huệ biến hiện ra vậy. Thế giới này của chúng ta là do tham – sân – si biến hiện ra. Nếu như bản thân chúng ta không có tham – sân – si thì ở trên thế giới này có bị tai nạn hay không? Không bị nạn.

(trích trong bài giảng Giới Là Hợp Tình Hợp Lý)

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Nhà bác học Albert Einstein Ở Địa Ngục



Albert Einstein Ở Địa Ngục (Albert Einstein In Hell)
Nhà bác học Albert Einstein Ở Địa Ngục
(Xem trên Youtube: https://goo.gl/miJcFm)

Hôm qua ở trong nước có một vị đồng học truyền cho tôi một cái tin tức, một đại khoa học gia thời cận đại là Albert Einstein, nhập thân sám hối việc ông ta phát minh bom nguyên tử, sau khi chết rồi đọa vào địa ngục. Cái địa ngục này xưa nay chưa từng có tiền lệ, chân chánh là địa ngục thống khổ nhất, địa ngục gì? Địa ngục "Hạch Bạo", chính là địa ngục nổ bom nguyên tử. Cái trạng huống đó chính là bom nguyên tử không ngừng nổ tung ở trên đầu của ông ấy, quả thứ nhất nổ tung xong rồi thì sau đó quả thứ hai lại nổ tung tiếp, liên tục không ngừng, khổ không thể tả. Lúc trước chúng ta đã nhiều lần báo cáo qua, hết thảy các hiện tượng đều là giả, từ tâm tưởng sanh, trong tâm ông ấy đúng là hạt nhân nổ tung, cho nên ông ấy ở trong cái địa ngục này. Nói về đời quá khứ ông ta đã từng học Phật, ông là người xuất gia, đối với Đại Thừa Phật Pháp biết được rất nhiều, cho nên ông ấy có trí huệ, cũng là không có phát nguyện cầu sanh Tịnh độ. Suy nghĩ trong tâm coi như không tệ, luôn nghĩ thay cho nhân dân, xã hội làm ra một việc tốt, thật không ngờ hậu quả là phát minh ra bom nguyên tử, dẫn đến hôm nay nhiều người có dã tâm ngày ngày đã và đang muốn phát triển thêm nhiều lọai vũ khí mới, với tham vọng có thể chinh phục thế giới. Đây đều là mộng tưởng, bởi vì chiến tranh võ khí hạt nhân thì đồng với tận thế, con người sẽ không có khả năng sống tại thế gian. Cái võ khí này khiến cho mỗi một người sinh sống trên địa cầu đều đang sống trong sợ hãi, cái áp lực này Albert Einstein phải phụ trách nhiệm.

Cho nên ông ấy rất đáng thương, ông đến nhờ siêu độ, quá khứ có chút thiện căn nhân duyên phước đức, ông mới có thể tạm thời thoát khỏi địa ngục, nhập thân lộ ra cái tin tức. Người trên cái địa cầu này nhất định phải hoàn toàn đình chỉ việc chế tạo võ khí hạt nhân, không được làm nữa, giác ngộ mau, đem hết thảy võ khí hạt nhân hiện có hủy bỏ hết, ông ấy mới có thể ra khỏi địa ngục. Mọi người chúng ta ngẫm nghĩ xem có khả năng không? Nói một cách khác, ông vĩnh viễn không thể thoát khỏi địa ngục, ông vô cùng đáng thương. Ông khẩn khoản nói với mọi người, hiện tại đang phát triển võ khí hạt nhân, chế tạo võ khí hạt nhân, tương lai sử dụng võ khí hạt nhân, bất luận là người ra lệnh chỉ huy, hoặc là người chấp hành, hậu quả về sau đều giống như ông ấy vậy. Tội gì mà làm? Tội gì gây trở ngại chính mình? Ông ấy hy vọng cái thế giới này vĩnh viễn hòa bình, trên thế giới này không còn có chiến tranh nữa. Phải nhờ vào cái gì? Albert Einstein là người ngoại quốc, phải nhờ văn hóa truyền thống Trung Quốc, phải nhờ Phật pháp. Trong quá khứ cũng có duyên với Phật, quyết định không chỉ là một đời, ông thông đạt đối với Kinh giáo Đại Thừa, cho nên ông có trí huệ, ông mới có nhiều phát minh như vậy. Ông cũng xem qua Tịnh Độ Tông, nhưng không có phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, đây là sai lầm lớn nhất mà ông phạm phải, hiện tại hối hận cũng không kịp. Cũng lộ ra cái tin tức đồng dạng với sở học của chúng ta. Trong thế gian xuất thế gian câu nói thiện nhất chính là A Di Đà Phật, một câu nói tốt lành nhất chính là câu A Di Đà Phật, vì sao chúng ta lại thường quên mất câu A Di Đà Phật. Lại cứ nói lời vô ích.

Cho nên tôi thường nhắc tới, hoặc là chùa miếu, hoặc là trong nhà, ông già bà cả niệm A Di Đà Phật từ sáng đến tối, si si ngốc ngốc dường như cái gì cũng đều không biết, ngoại trừ một tiếng A Di Đà Phật ra, họ không nói thêm câu nào khác. Gặp bất cứ người nào nét mặt cũng đều tươi cười, từng tiếng A Di Đà Phật rót vào lỗ tai của bạn, thường thường chúng ta khinh thị đối với những người này, coi thường họ, nói họ Phật học ngây cả người, học u mê. Thật tình không biết người như vậy là người chân chánh niệm Phật, người như vậy tương lai vãng sanh đều là thượng phẩm vãng sanh. Chư Phật Bồ Tát tam chuyển pháp luân, cái họ hiển bày ra chính là tác chứng chuyển. Chúng ta gặp được hạng người này, phải tôn trọng, phải lễ kính, phải xưng tán, chúng ta không bằng họ, lời nói này là thật không phải giả. Chúng ta có vọng tưởng, có tạp niệm, còn có lúc quên mất câu Phật hiệu, họ không có, họ một câu niệm Phật tiếp lấy một câu niệm Phật, niệm niệm tương tục, chẳng hề gián đoạn. Họ hoàn toàn tương ứng với giáo huấn của Phật Đà trên Kinh Phật, điều này chúng ta không thể không biết đến, nên hướng về họ học tập, buông xả vạn duyên. Nhất định phải biết rõ, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác báo, nhân quả báo ứng tơ hào không sai, bản thân khởi một niệm thì phải chịu trách nhiệm lấy. Cổ đại đức dạy bảo chúng ta đều là lời hữu ích, lời vàng ngọc, nhiều chuyện không bằng ít chuyện, ít chuyện không bằng không chuyện. Phật dạy chúng ta tùy duyên không phan duyên, cái gì gọi là tùy duyên? Hết thảy điều kiện đều có đủ, người khác đến mời, đây là tùy duyên. Tự chúng ta dự tính sắp đặt trước, mọi thứ chuẩn bị chu đáo, điều kiện có đủ rồi ta đi, vậy là phan duyên. Phan duyên thì bạn có khởi tâm động niệm, bạn có phân biệt chấp trước, tùy duyên không có.

[Trích Từ Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2012]
Tập 355, Thời gian: 11-07-2013
Địa điểm: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Lược dịch: Huỳnh Nguyễn Song Thân

Nếu quá trình chuyển ngữ có chút ít công đức nào xin hồi hướng cho ngài Albert Einstein sớm ngày lìa khổ được vui, siêu sanh Tịnh Độ, cũng xin hồi hướng trang nghiêm Tây Phương Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ. Nếu có ai thấy nghe, đều phát tâm bồ đề, hết một báo thân này, đồng sanh Cực lạc quốc.

- Nguyện cho một thế giới không còn võ khí hạt nhân -

(Trích từ Giáo Dục Nhân Quả facebook : https://www.facebook.com/nhanquagiaoduc)

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

MẸ HIỀN CON HIẾU (tập 2)


Các vị thầy cô giáo, các vị bằng hữu, kính chào quý vị!

Hôm qua chúng tôi đã bắt đầu trình bày với quý vị về bài báo cáo những vấn đề tâm đắc của việc giáo trong dục gia đình. Chúng tôi đã chuẩn bị bài báo cáo gồm bảy phương diện để trình bày với quý vị. Bảy phương diện này bao gồm:
1. Vị thầy của giáo dục trong gia đình
-         Trách nhiệm người mẹ là số một.
2. Điểm khởi đầu của giáo dục trong gia đình
-         Bắt đầu từ thai giáo.
3. Căn bản của giáo dục trong gia đình
-         Hiếu là căn bản của đạo đức.
4. Nội hàm của giáo dục trong gia đình
-         Là giáo dục tố chất.
5. Vấn đề hàng đầu của giáo dục trong gia đình
-         Là tiếp thu gồm cả giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền.
6. Thăng hoa của giáo dục trong gia đình
-         Là thúc đẩy con cái vì một thế giới hài hòa mà lập đức, lập công, lập ngôn.
7.  Nguyên lý của giáo dục trong gia đình
-         Cảm ngộ của 30 nuôi năm dạy con cái.
Hôm qua chúng ta đã bàn đến nội dung thứ tư, nội hàm giáo dục gia đình - giáo dục tố chất. Sau đây chúng tôi xin tiếp tục trình bày với mọi người. Hôm qua có nói đến, chúng ta không thể dùng tiền bạc và vật chất để mà đo lượng tình thân và lòng hiếu thảo. Người xưa nói: “Vàng thì có giá, tình thì vô giá”.
Con (Giáo sư): Khi tôi du học ở Mỹ, có rất nhiều bạn học nói với tôi rằng: “Bạn thường đem tiền gửi về phụng dưỡng cha mẹ, gọi điện về cho gia đình mà mỗi năm còn về thăm nhà, nếu số tiền này đem gom lại thì có thể mua một chiếc xe hơi”. Nhưng mà tôi vẫn chỉ đạp chiếc xe đạp của mình. Ngày 25 tháng 04 năm 1996, khi đang học ở Mỹ, mẹ tôi đã gửi cho tôi một bức thư, trong đó viết:
“Duy trì sự liên lạc với quê nhà, cách làm này là trong tâm có đạo, là tấm lòng phụng dưỡng mẹ. Người xưa tế tự rất là long trọng. Học trò của đức Khổng Tử nói rằng: “Nên phế bỏ những vật phẩm cúng tế ấy bởi vì lãng phí tiền bạc”. Nhưng mà đức Khổng Tử đáp rằng: “Con quí trọng tiền bạc, ta lại càng quí trọng cái lễ nghĩa này. Lễ nghĩa mà được nối tiếp tương tục thì lòng dân sẽ thuần hậu”. Con trai này! Cách làm của con đã có được cái phong thái và khuôn mẫu của người xưa, mẹ rất hài lòng”.
Nhưng mà bản thân tôi cũng rất là hổ thẹn, suy nghĩ lại và tự kiểm điểm chính mình vì thường làm rất nhiều việc khiến mẹ tôi không vừa ý, không hài lòng. Như là tôi nhớ lại khi lần đầu tiên trở về thăm nhà trong thời gian du học ở Mỹ, lúc đó tôi mua rất nhiều quà, chuẩn bị khi trở về biếu cha mẹ và bà con. Nghĩ rằng tóc của mình cũng dài dài rồi. Ở Mỹ một lần cắt tóc ít nhất cũng hết 12 Đô la nhưng về nước cắt chỉ hết khoảng mười Nhân Dân Tệ thôi, thế là trong lòng bắt đầu tính là nếu về nước mà cắt thì sẽ dư được số tiền chênh lệch giá đó. Tôi học về ngành tài chính mà, cho nên trong lòng đã tính toán như thế. Và tóc của tôi đã dài ra. Sau đó thì với dáng vẻ phong trần mà từ Mỹ trở về nhà. Trên đường về phải qua ba lần chuyển máy bay. Từ trường tôi đến Dalas, từ Dalas đến Los Angeles, từ Los Angeles đến Hồng Kông, từ Hồng Kông ngồi xe một mạch về đến Quảng Châu. Khi về đến nhà thì trông thật là phong trần bụi bặm. Lúc tôi bước tới trước cửa nhà và gõ cửa, mẹ tôi đã ở nhà và chờ rất lâu, nghe tôi vừa gõ cửa đã vội vàng mở cửa. Tôi nhìn thấy mẹ thì ngay lập tức cúi thấp đầu nói: “Chào mẹ, con đã về”. Nhưng mà khi trông thấy mẹ từ đầu đến chân đều rất là chỉnh tề, rất gọn gàng và rất sạch sẽ, khiến lòng tôi cảm thấy rất là hổ thẹn. Mẹ cho tôi vào nhà, cũng đã pha trà sẵn chờ tôi về. Sau đó rất vui mừng mà nói với tôi : “Mao Sâm à! Hôm nay vì đợi con về mà hôm qua mẹ đã đi làm tóc”. Khi nghe mẹ vừa nói như vậy thì trong lòng tôi càng cảm thấy hết sức xấu hổ, tâm thái mình cùng với tâm thái của mẹ thật là không giống nhau. Bạn xem, mẹ đợi con trai trở về, muốn cho con trai nhìn thấy hình ảnh đẹp nhất của mình, vậy mà lòng tôi lại còn tính toán như vậy, cứ nghĩ rằng giá cả ở Mỹ thì cao còn ở Trung Quốc thì thấp. Đây là gì vậy? Đây chính là đem cái lợi đặt lên trên lòng hiếu thảo đối với mẹ mình, vậy thì làm sao được xem là hiếu chứ? Cho nên việc này làm cho tôi đến hôm nay vẫn còn cảm thấy rất hổ thẹn. Bây giờ mọi người cũng nhìn thấy xã hội có rất nhiều thanh niên, họ vì muốn đi gặp người bạn gái mà chải chuốt thật đẹp, nhưng mà nếu như đi gặp cha mẹ thì có cái tâm này không? Trong Hiếu Kinh, đức Khổng Tử nói rất hay: “Bất ái kỳ thân nhi ái tha nhân giả, vị chi bội đức; Bất kính kỳ thân nhi kính tha nhân giả, vị chi bội lễ”. Chúng ta thử nghĩ, nếu như đối cha mẹ mà cũng không thể yêu thương thì người đó có thể yêu thương được ai chứ? Đối với cha mẹ mà họ không tôn kính thì người đó còn có thể kính trọng người khác không? Khổng Tử nói đó là trái lễ bội đức. Cho nên từ sau lần đó bản thân tôi mỗi lần đi gặp cha mẹ thì đều chăm chút lại vẻ bề ngoài của mình khiến cho cha mẹ khi nhìn thấy tôi đều sinh tâm hoan hỷ.
Mẹ (Cô giáo): Thời gian Mao Sâm còn du học ở Mỹ thì đã tám lần tổ chức buổi tọa đàm về hiếu đạo cho các du học sinh Trung Quốc. Cậu ấy đã đem những điều mà tự mình học được ở nhà là những lời giáo huấn có liên quan đến hiếu đạo trong kinh điển của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo chia sẻ với các bạn học. Trong mỗi lần tổ chức những hoạt động này, cậu ấy đều chủ động cung thức ăn, sắp xếp phòng hội nghị, cung cấp trà nước, khiến cho mọi người khi tụ họp lại đều rất vui. Mỗi lần có một bạn học Trung Quốc học thuộc kinh điển của những Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo có liên quan đến những giáo huấn về mặt hiếu đạo thì vô cùng cảm động. Khi các sinh viên đọc những điều này thì đều rơi nước mắt, mọi người đều cảm động, quyết định phải học thật tốt để khiến cha mẹ mình được an lòng. Vì tự hào của người Trung Quốc, cho nên họ đều phát nguyện sẽ tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, bày tỏ sự phấn chấn, hoàn thành việc học tập để tương lai phục vụ cho đất nước, đồng thời đều nhanh chóng gọi điện về quê hương để hỏi thăm cha mẹ đang ở quê nhà.
Trong thời gian Mao Sâm nghỉ hè thì cậu ấy đã đi đến Bắc Mỹ, bang Minesota làm việc trong một thành phố du lịch. Khi đó đi cùng với 9 người bạn Trung Quốc. Chín người họ chỉ thuê một căn nhà đơn giản. Tối ngủ trên nền nhà, vì không có bất kỳ vật dụng gia đình nào cả. Khi đó Mao Sâm làm kẹo bông gòn ở trong một ngôi nhà của một khu vui chơi trong thành phố. Đây là loại đồ ăn vặt rất được du khách và các trẻ nhỏ yêu thích. Kẹo bông gòn phải được làm ở trong một cái phòng rất kín, máy móc chạy rầm rầm nhưng du khách bên ngoài thì không nghe thấy. Làm kẹo bông gòn thì mỗi ngày phải làm việc từ mười tiếng đồng hồ trở lên, máy móc không ngừng chạy, chỉ khi đi vệ sinh mới có thể nghỉ ngơi một chút. Mỗi giờ thu được khoảng gần 7 Đô la. Mỗi ngày phải đứng mười tiếng đồng hồ. Khi đó cậu ấy làm thuê được gần ba tháng, thu nhập được hơn 3.000 đô la Mỹ. Cậu ấy lập tức gửi cho tôi 1.000 đô la. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được số tiền ngoại tệ lớn như vậy. Khi cậu ấy làm thuê, vào ngày 01 tháng 07 năm 1996, đã viết cho tôi một lá thư. Bức thư này khiến cho người ta rất là cảm động. Tôi xin được chia sẻ cùng mọi người.
“Mẹ kính yêu!
Chào mẹ! Vừa mới nhận được thư mẹ gửi vào ngày 23 tháng 06, con rất là vui mừng. Nhân dịp hôm nay là ngày được nghỉ làm, con đã ở trong một cái kiosk gần chỗ con ở mà viết thư hồi âm cho mẹ (vì trong chỗ ở không có bàn ghế nên không thể không đi ra ngoài để viết). Đây là một cái công viên bên cạnh nhà trọ của chúng con, khắp nơi đều là cây cối hoa cỏ rậm rạp tốt tươi, lại còn có rất nhiều loại chim nhiều màu sắc và trong lùm cỏ chui ra một con thỏ rừng, rất là u nhã tĩnh mịch. Trong một khung cảnh vừa có không khí dễ chịu vừa có hoa thơm, chim hót mà ngồi viết thư cho người mẹ ở phương xa, thật là có một cảm giác vui vẻ ấm áp không thể nói nên lời. Đối với con mà nói, không có ai giao lưu tâm đắc mà vui như mẹ cả.
Cuộc sống của con trong một tháng làm thuê này, điều cảm nhận đầu tiên là phước báu đến thật không dễ! Chúng con đi làm thì vào ca và tan ca đều quẹt thẻ để tính giờ, mỗi giờ đã định đều rất là chính xác, mỗi giờ thu nhập là 6,35 Đô la. Điều con cảm nhận thứ hai là thời gian là tiền bạc. Mỗi một giờ đồng hồ đã có một giá trị rất rõ ràng, cho nên mọi người đều hy vọng có được nhiều thời gian hơn 24 giờ mỗi ngày, để có thể dùng thời gian vào việc kiếm tiền. Nhưng không ai chịu góp một chút sức lực cho tập thể trong ký túc xá, kết quả là chính con phải thay mọi người làm những việc như là dọn bếp lò, rửa nhà vệ sinh, đi mua máy hút bụi, vệ sinh thảm trải sàn,…”.
Tôi nhận được lá thư này của con trai thì rất là vui mừng! Con trai trong công việc gian khổ mà còn có thể viết thư cho mẹ, sau khi làm việc suốt mười giờ đồng hồ vẫn còn có thể thay mọi người làm một chút việc, cho nên tôi cảm thấy rất là an ủi! Mạnh Tử nói: “Cái đạo của vua Nghiêu vua Thuấn là từ hiếu để mà thành”, mà cái đạo hiếu để là phải được thể hiện từng li từng tí trong cuộc sống hằng ngày. Đệ Tử Quy không phải chỉ để đọc thuộc, mà là phải chân thật áp dụng vào trong cuộc sống thực tiễn! Không những phải làm được trong hoàn cảnh thuận lợi, mà trong hoàn cảnh gian khổ cũng phải làm cho được!
Bà ngoại của Mao Sâm mất năm 1994. Trong thời gian thủ hiếu, mẹ con tôi bắt đầu ăn chay, cho đến sau khi kỷ niệm 49 ngày mất của bà thì chúng tôi đã quen ăn chay. Trong Đệ Tử Quy có viết: “Tang ba năm, thường thương nhớ, chỗ ở đổi, không rượu thịt”. Chúng tôi khi đó thật sự là có chút thể hội. Lúc đó Mao Sâm 21 tuổi, đến năm nay thì đã 34 tuổi, như vậy là kiên trì ăn chay đã được 13 năm rồi. Sức khỏe của mẹ con tôi đều rất tốt. Việc ăn chay đích thực có rất nhiều lợi ích. Ăn chay có thể ảnh hưởng đến sinh lý và tâm lý của con người. Nó ảnh hưởng đến tâm lý là khiến người có thể tăng trưởng lòng thiện lương, rộng rãi độ lượng và từ bi. Nó ảnh hưởng đến sinh lý là sau khi ăn chay cảm thấy thân thể khá là nhẹ nhàng, mà cũng không dễ bị hôn trầm. Chúng tôi nhìn thấy rất nhiều những người thường ăn thịt thì họ hay bị hôn trầm, hiệu suất làm việc cũng không cao, cho nên sau khi ăn chay chúng tôi cảm thấy hiệu suất học tập, hiệu suất làm việc và sức nhớ đều tăng lên. Khi đó Mao Sâm đang trong thời gian du học đã viết cho tôi một bức thư nói rằng: “Con mỗi ngày đều kiên trì ăn chay, chi phí mỗi tháng là 80 đô la Mỹ. Ăn uống cũng rất dinh dưỡng, sức lực dồi dào”.
Vậy ở Mỹ thường ăn những gì? Cậu ấy nói là thường ăn củ cải đỏ, bắp cải. Đây là loại rau dại tròn tròn mà người Quảng Đông chúng ta hay nói đến. Rồi cà chua, cơm, trái cây, v.v… Mỗi ngày đều thường ăn những thứ này, ăn đến nỗi sắc mặt cũng trở nên hồng hào luôn. Khi Mao Sâm từ Mỹ trở về thăm nhà, mọi người đều nói cậu ấy sức khỏe thật là tốt, ở Mỹ môi trường sống và thức ăn chắc tốt lắm. Thực tế là việc ăn chay đã khởi nên cái hiệu quả này. Sau này, chúng tôi xem đến những tài liệu có liên quan đến sức khỏe, chúng tôi mới thấy là những loại rau củ này đều có chứa rất nhiều dinh dưỡng. Củ cải đỏ có biệt hiệu là tiểu nhân sâm, đối với sức khỏe rất là tốt, còn bắp cải thì chúng ta gọi là rau dại thì rất là tốt đối với dạ dày và ruột. Ngoài ra cà chua lại là loại thực phẩm làm đẹp nữa, có hàm lượng vitamin C rất lớn. Đồng thời ở Mỹ trái cây cũng khá nhiều, dinh dưỡng của những loại này rất là phong phú, canxi, vi sinh tố các loại đều có. Trong thư Mao Sâm có nói với tôi rằng: “Ăn mặc không chải chuốt thì tâm không sinh ham muốn, ăn uống không cầu kỳ thì tâm không sinh tham luyến. Việc này áp dụng đối với Đệ Tử Quy ở chỗ:
“Với ăn uống, đừng chọn lựa;
nếu áo quần, nếu ăn uống,
không bằng người, không nên buồn”.
Điểm này có thể làm được một cách tương đối vui vẻ. Khi Mao Sâm đang du học ở Mỹ có thể nhẫn nại cách sống và học tập đơn điệu. Đơn điệu như thế nào? Cuộc sống của mỗi ngày là vận động theo hình tam giác. Từ ký túc xá đến thư viện, từ thư viện đến lớp học, là di chuyển theo cái hình tam giác này, cho nên cuộc sống rất là đơn thuần. Đệ Tử Quy có nói:
“Nơi ồn náo, chớ đến gần
Việc không đáng, tuyệt không hỏi”.
Trong cái hoàn cảnh như vậy thì tự nhiên cũng làm được cái điểm này. Khi Mao Sâm du học ở Mỹ, chúng tôi tổng kết được cậu ấy đã làm được “bảy không”. Đó là không xem ti vi, chiếu bóng, không dạo phố mua sắm, không kết giao bạn bè xâu, không phung phí tiền bạc, không để tóc dài, không mặc quần áo lố lăng, và không yêu đương. Chúng tôi cảm thấy vì con có thể giữ được bảy điều này trong cuộc sống cho nên có thể duy trì việc tự mình rất chuyên tâm mà học tập. Con sau này cũng nên kiên trì giữ bảy điều này. Như vậy đối với việc thực tiễn Đệ Tử Quy chỗ nói là:
“Phi sách thánh, không nên xem
Che thông minh, hư tâm trí”.
Đây cũng chân thật là làm được đến chỗ này. Mà cũng trong thời gian du học này Mao Sâm rất là trân quí thời gian, lúc đó thì trân quí thời gian du học. Thực hiện được Đệ Tử Quy chỗ nói là:
“Sáng dậy sớm, tối ngủ trễ
Lúc chưa già, quí thời gian”.
Cho nên khi tốt nghiệp thạc sĩ vào năm 1997, thì tất cả thành tích đều là ưu tú, toàn bộ thành tích đều là A. Do đó, được một phần thưởng đặc biệt 500 đô la tại trường học ở Mỹ. Sau khi cậu ấy nhận được 500 đô la này thì lập tức gửi cho tôi 200 đô la, để tôi cùng hưởng thành quả lao động của cậu ấy.
An trú trong cuộc sống học tập một cách thanh tịnh như vậy rất là chuyên tâm, cho nên Mao Sâm trong thời gian bốn năm đã hoàn thành toàn bộ khóa trình môn học của thạc sĩ và tiến sĩ, tốt nghiệp trước thời gian đã định. Cậu ấy viết thư nói với tôi rằng:“Mẹ à! Con đã hoàn thành toàn bộ khóa trình tiến sĩ một cách thuận lợi, mà còn thông qua kỳ thi tư cách tiến sĩ tài chính chỉ trong một lần thi mà thôi”. Ở Mỹ dự thi tư cách tiến sĩ kinh tế từ sáng đến tối mất khoảng 8 tiếng đồng hồ, giữa thời gian chỉ có thể ăn một cái bánh mì. Cách thi này là sát hạch toàn diện về học thức, tố chất và sức khỏe của một sinh viên. Có những sinh viên do không thể chịu đựng nổi thời gian sát hạch lâu dài như vậy, cho nên không thể hoàn thành trong một lần thi. Có người thì do chuẩn bị trong việc học tập chưa đủ, có người thì do tố chất tâm lý không tốt nên hơi căng thẳng, hơi sợ hãi hoặc lo lắng, cho nên rất nhiều người đã không thể thông qua loại sát hạch này trong một lần được. Mao Sâm là một người rất may mắn, chỉ một lần là vượt qua luôn. Thông qua kỳ thi tư cách tiến sĩ nhưng mà chúng tôi cảm thấy để đạt được cái may mắn này là nhờ sự nỗ lực và tích lũy lúc bình thường.
Con: Tôi giống như là một cái cây nhỏ, đằng sau tôi có một người làm vườn rất là cần cù lao động. Người làm vườn này chính là mẹ tôi. Bất luận là ở bên cạnh mẹ hay là cách xa mẹ thì sự quan tâm của mẹ cũng luôn theo bên tôi. Trong một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật tôi, mẹ đã viết như vầy:
“Mao Sâm con! Chúc phúc của mẹ sẽ theo con đến tận chân trời góc biển; Tâm nguyện của mẹ sẽ phụ thuộc vào ánh quang minh trong sạch của một đời con!”.
Trước khi tốt nghiệp tiến sĩ một năm, tôi đúng 25 tuổi, mẹ đã gửi cho tôi một tấm thiệp chúc mừng sinh nhật rất là đặc biệt. Trong tấm thiệp này có hình của tôi từ khi còn nhỏ đến lớn, lời chúc phúc của mẹ tôi cũng rất ý vị. Xin chia sẻ cùng mọi người cái lý tưởng này. Mọi người nhìn cái thiệp này, góc trái phía trên là hình mẹ tôi, dưới là lúc sơ sinh, sau đó là lúc đi nhà trẻ, đến tiểu học, trung học, và tấm hình đi học khi ở Trường đại học Trung Sơn ở Quảng Châu. Và còn hình chụp khi đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ nữa. Góc bên phải dưới là hình tôi và mẹ chụp chung ở trên Đỉnh Bát Đạt Trường Thành, Bắc Kinh, Trung Quốc, tượng trưng cho việc chúng tôi đã cùng nhau vượt lên trên một con đường. Lời chúc của mẹ được viết như thế này:
“Con trai Mao Sâm! Chúc mừng sinh nhật 25 tuổi của con. Quay đầu nhìn lại dấu chân mình đã qua đi con đã kiểm điểm được điều gì? Con lĩnh ngộ được điều gì?
Lời nhắn gửi con trai Mao Sâm của mẹ:
“Không rời Phật pháp mà hành thế pháp
Không bỏ thế pháp mà chứng Phật pháp
Hoàn thiện nhân cách, thành tựu Phật đạo
Từ bi thanh tịnh, trú chân thật tuệ
Giải thoát ngay trong cuộc sống
Phụng hiến ngay trong xã hội!”
Mẹ của con!
Mùa xuân năm 1998”.
Mẹ: Giáo dục tố chất trong Đệ Tử Quy có một câu nói:
“Phàm là người, đều yêu thương
Che cùng trời, ở cùng đất”.
Thời gian Mao Sâm du học tại Mỹ đã hai lần đi đến bệnh viện hiến máu. Khi đó bệnh viện ở Mỹ rất mong có được loại máu tốt của những thanh niên khỏe mạnh để dự phòng cấp cứu cho bệnh nhân. Mao Sâm rất vui vẻ đáp ứng. Cậu ấy lấy việc này kết duyên với người dân Mỹ, khiến cho dòng máu mạnh khỏe của thanh niên chúng ta cũng chảy trong mạch máu của người Mỹ. Khi đó Mao Sâm vẫn còn là một thư sinh nghèo, nhưng mà thanh niên là có nhiệt huyết, có lòng yêu thương, cho nên nói người chúng ta không nghèo! Khi con trai gọi điện cho tôi nói về việc đi đến bệnh viện hiến máu, tôi đã rất là khen ngợi, tán thành cái tinh thần phụng hiến xã hội này của con trai. Chỉ cần con vì đại chúng mà phục vụ thì người làm mẹ đều nên giúp đỡ ủng hộ. Chúng ta nên ủng hộ hết thảy các ý niệm thiện của con cái, nên tùy hỷ mà tán thán hết thảy thiện hành của con cái. Làm như vậy có phải bị thiệt thòi không? Không thiệt thòi. Trong quá trình con cái phụng hiến cho đại chúng thì cũng có thể nâng cao tinh thần và phẩm đức của mình, khiến cho tinh thần và phẩm đức của mình được thăng hoa, khiến cho sự thông minh được thăng hoa. Đây là từ góc độ chính mình mà nói, còn nhìn từ góc độ người khác mà nói thì sự phụng hiến này có thể khiến cho người khác nhìn thấy được, đạt được lợi ích, cho nên cách dâng hiến này là tự lợi lợi người.
Khi Mao Sâm du học ở Mỹ đã phát hiện được trong trường không có cung cấp kinh phí giúp các nghiên cứu sinh làm những hoạt động về học thuật. Ví dụ như học sinh và thầy cô giáo cùng đi tham dự một hội nghị về học thuật, thì tất cả chi phí cho các thầy cô giáo sẽ do nhà trường gánh vác, nhưng mà các nghiên cứu sinh thì phải tự mình bỏ tiền túi ra. Nào là đóng phí công tác, phí ăn ở, còn có phí hội nghị nữa, đều là do học sinh tự mình lo liệu. Là học sinh mà nói thì vấn đề tiền bạc đều có hạn, không có thu nhập mà. Xét thấy cái tình huống như vậy cho nên Mao Sâm đã làm một báo cáo gửi cho trường đại học Mỹ này yêu cầu lập ra một nguồn ngân quỹ dành cho các các nghiên cứu sinh làm các hoạt động về học thuật, trường học cần phải cấp kinh phí. Khi đó Mao Sâm tự mình cũng bày tỏ với nhà trường rằng: “Tôi sắp tốt nghiệp rồi, sau khi tôi tốt nghiệp nhất định sẽ chi một khoản tiền lương gửi về đây để giúp đỡ ủng hộ hạng mục này. Tôi sẽ gửi cho trường mỗi năm 1.000 Đô la”. Sau khi Mao Sâm tốt nghiệp tiến sĩ thì đi đến dạy học ở trường đại học Texas Mỹ rất là thuận lợi. Lúc đó, sau khi nhận được tiền lương tháng đầu tiên cậu ấy đã ngay lập tức chuyển 1.000 Đô la về cho trường cũ. Khi chủ nhiệm khoa tài chính là giáo sư An Đức Sâm nhận được số tiền 1.000 Đô la thì ông đã rất là tán thán cái tinh thần tuân thủ lời hứa của học sinh Trung Quốc chúng ta. Đối với cách phụng hiến vô tư của học sinh chúng ta ông ấy đều đưa lên một ngón tay cái. Về sau, do vì nỗ lực này của Mao Sâm mà nhà trường đã từ từ thiết lập ra một hạng mục ngân quỹ. Sau này những học sinh này tốt nghiệp, trước khi tốt nghiệp đều có thể thụ hưởng được cái đãi ngộ này, có thể tham gia làm các hoạt động về học thuật mà nguồn ngân quỹ sẽ do nhà trường cung cấp, giúp cho những nghiên cứu sinh tiến sĩ có được những thuận lợi này. Mao Sâm đã liên tục năm năm liền sau khi tốt nghiệp mỗi năm đều gửi 1.000 Đôla Mỹ cho nguồn ngân quỹ này, nhằm giúp đỡ ủng hộ công tác học tập và nghiên cứu của những nghiên cứu sinh này. Trên thực tế, lòng yêu thương của việc suy bụng ta ra bụng người cũng là tiên sư Khổng Lão Phu Tử đã từng dạy chúng ta, là một trong những tố chất mà Đệ Tử Quy dạy cho chúng ta là yêu thương người.
Đức Khổng Tử dạy bảo là nhân đạo. Chúng ta nhìn thấy chữ “Nhân” có hàm chứa đến hai chữ người bên trong, cũng chính là nói khi chúng ta nghĩ về chính mình thì đồng thời cũng phải nghĩ đến người khác, khi quan tâm đến bản thân mình thì cũng phải quan tâm đến người khác. Trong Luận Ngữ có ghi chép học trò tên là Phàn Trì đã hỏi thầy mình rằng: “Thế nào là Nhân?”. Khổng Tử nói: “Yêu thương người là Nhân”. Đệ Tử Quy cũng viết: “Phàm là người, đều yêu thương”.
Trong loại giáo dục tố chất này của Đệ Tử Quy có một câu nói rằng:
“Gần người nhân, tốt vô hạn
Đức tiến dần, lỗi ngày giảm”.
Đó chính là dạy bảo chúng ta cần phải thân cận vị thầy có học vấn có đạo đức, thân cận người thiện tri thức. Tôi rất là lưu ý các vị thầy này của Mao Sâm. Từ khi tiểu học, trung học rồi đến đại học, một mạch cho đến khi làm nghiên cứu sinh, tôi đều rất chú ý từ các thầy cô chủ nhiệm cho đến các thầy cô bộ môn, thậm chí là hiệu trưởng trường. Mỗi lần họp phụ huynh học sinh tôi đều quyết không vắng mặt. Tôi rất là chăm chú lắng nghe những đánh giá về ưu điểm và khuyết điểm của Mao Sâm từ thầy chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn, đồng thời tôi cũng lưu ý tố chất của những vị thầy cô này, nhìn xem các thầy cô này họ đối người tiếp vật, tính trách nhiệm và lòng yêu thương của họ đối với con trẻ như thế nào. Một khi tôi phát hiện ra được một vị thầy cô tốt, tôi nhất định sau đó sẽ dắt con mình đi đến nhà vị thầy cô đó để thăm hỏi. Tôi muốn cho con tôi tiếp xúc nhiều với những vị thầy cô ưu tú này. Những cảm xúc tốt đẹp về những thầy cô ưu tú này đối với con trẻ là một sự huân tập rất tốt.
Tôi còn nhớ khi Mao Sâm còn học đại học, ông Vương Bình Sơn là Viện trưởng Học viện Lĩnh Nam, ông là một nhà giáo dục. Tôi thường đưa Mao Sâm tới nhà ông ấy làm khách. Khi đó con tôi còn rất trẻ, chỉ mới vừa lên đại học nên còn chưa biết phải nói chuyện như thế nào, chỉ ngồi bên cạnh mà nghe thôi. Tôi cùng ông hiệu trưởng nói chuyện về tình hình dạy học. Ông Vương Bình Sơn, vị viện trưởng này, ông ấy vừa bàn về giáo dục là thao thao bất tuyệt. Ông ấy nói về việc tư cách một người thầy thì phải như thế nào, khóa trình dạy học thì phải sắp xếp ra làm sao, đối với học sinh thì yêu cầu những gì, v.v… Cái tinh thần yêu nghề của một nhà giáo dục và cái nhiệt tâm đối với sự nghiệp giáo dục của ông đối với một người trẻ tuổi như Mao Sâm đều là một sự huân tập rất tốt.
Lúc đó, việc tiếp cận với những vị thầy cô có đạo đức có học vấn không những là ở trong trường, tầm mắt tôi cũng chú ý đến bên ngoài trường. Tôi cũng còn nhớ có một lần tôi tham gia một cuộc họp báo cáo, khi đó người làm báo cáo là một vị giáo sư người Mỹ ở Trường đại học Chicago. Ông ấy là một giáo sư về mặt xã hội học. Ông ta dùng tiếng Anh để làm bài phát biểu. Người phiên dịch là thầy Trần, một vị giáo viên trẻ tuổi của học viện Ngoại ngữ Quảng Châu. Khi đó, nghe bài báo cáo tôi cảm thấy trình độ phiên dịch của thầy là rất cao, cách phiên dịch của thầy ấy rất chuẩn xác, rất văn nhã, hơn nữa dáng vẻ thái độ của thầy ấy cũng rất là văn minh. Trong lòng tôi rất tán thán vị giáo viên này. Khi đó tôi nghĩ rằng, nếu như con trai tôi có thể học tiếng Anh với một giáo viên như vậy thì tốt biết mấy! Cho nên sau khi hội nghị báo cáo kết thúc, tôi liền đi đến trước mặt thầy Trần và khen ngợi trình độ phiên dịch của thầy ấy. Thêm vào đó, tôi bày tỏ tâm nguyện của một người làm mẹ. Tôi nói với thầy ấy rằng, tôi rất hy vọng thầy ấy có thể hướng dẫn cho con trai tôi. Nếu như thầy ấy có thể thì vào ngày chủ nhật đến nhà chúng tôi hoặc là chúng tôi sẽ đến nhà thầy ấy. Tôi nói đến lúc đó có rất nhiều bạn thân của tôi cũng có con cái, chúng cũng trạc tuổi con tôi, cũng hy vọng có những vị thầy ưu tú như vầy chỉ bảo. Vị thầy họ Trần này có tố chất rất khác người thường. Thầy ấy là một người rất có lòng yêu thương, sự độ lượng cũng rất là sâu rộng, không ngờ thầy ấy lại có thể đáp ứng lời yêu cầu của tôi, vào ngày chủ nhật thì đến nhà tôi. Tôi liền triệu tập Mao Sâm cùng với các người bạn thân và những đứa cùng tuổi, mở một buổi tọa đàm về học tập ngay trong nhà tôi. Thầy Trần liền giảng cho mọi người cùng nghe làm thế nào để học tốt môn tiếng Anh. Về sau, những đứa trẻ này gặp phải những vấn đề gì trong việc học tiếng Anh đều chủ động thỉnh giáo thầy Trần. Sau này, tôi nghe nói vị thầy họ Trần ấy hiện nay đã là Phó hiệu trưởng Trường đại học Ngoại ngữ Ngoại thương Quảng Đông. Đây đều là những vị thầy rất ưu tú, đều là những vị thầy yêu mến sự nghiệp giáo dục.
Tiếp cận với những vị thầy ưu tú không chỉ ở bên trong và bên ngoài trường học, mà những người làm mẹ như chúng ta cần phải chú ý đưa ánh mắt mình ra xã hội, chú ý cả về mặt tôn giáo. Năm 1990, sau khi cha tôi mất, vì để có thể giúp mẹ tôi giải trừ những tâm tư quá bi thương trong lòng của bà, tôi đưa bà đến chùa Quang Hiếu ở Quảng Châu, là ngôi tự viện lớn nhất để cho khuây khỏa. Trên thực tế, tôi cũng chưa từng đi qua ngôi chùa này, tôi cũng không biết phải đi như thế nào, nhưng mà vì phải đưa mẹ tôi đi nên cứ đi thử, không nên cứ ở nhà mà buồn bã mãi. Lúc đó, chúng tôi ngồi xe taxi đi, nói với tài xế taxi là anh ta có biết chùa Quang Hiếu không, chúng tôi muốn đi đến chùa Quang Hiếu. Khi chúng tôi lần đầu tiên bước vào chùa, vị thầy xuất gia đầu tiên mà chúng tôi gặp phải là lão hòa thượng Bổn Hoán - Phương trượng của chùa. Sau này tôi mới biết Lão hòa thượng Bổn Hoán này là vị cao tăng đại đức rất nổi tiếng ở nước ta. Lão hòa thượng năm nay đã 101 tuổi, còn rất khỏe mạnh. Khi tôi đưa mẹ đến chùa, sau khi nhìn thấy lão hòa thượng, cái khí chất và tu dưỡng rất thanh tịnh của Lão hòa thượng khiến cho tâm tình buồn bã của tôi và mẹ tôi như là giảm đi rất nhiều. Lúc họ ăn cơm vào 11 giờ trưa, lão hòa thượng rất là từ bi đã giữ mẹ con chúng tôi lại ăn một bữa cơm chay. Tôi còn nhớ bữa cơm chay cũng rất ngon, rất là khai vị.
Thế là sau đó tôi cũng dắt con trai đi đến chùa Quang Hiếu, đi đến bên cạnh lão hòa thượng, bắt chuyện cùng ông. Tôi muốn cho con trai tiếp xúc một chút với người xuất gia, xem xem những người xuất gia thanh tịnh và tiết dục này họ sống như thế nào? Mao Sâm khi đó là một sinh viên đại học cũng rất là thích hỏi han, hỏi lão hòa thượng người khi xưa vì sao lại xuất gia? Người xuất gia vì mục đích gì? Hỏi rất nhiều những vấn đề như vậy. Lão hòa thượng Ngài cũng rất là nhẫn nại trả lời.
Sau đó thì rất là may mắn, vào năm 1992, chùa Quang Hiếu lễ thỉnh Lão pháp sư Tịnh Không đến ngôi chùa này giảng giải Kinh A Di Đà. Đi nghe hết năm ngày, tôi vừa đúng có cơ hội cung kính lắng nghe Tịnh Không lão pháp sư giảng Kinh A Di Đà. Tôi lập tức gọi điện bảo Mao Sâm ở đại học Trung Sơn hãy mau quay trở về để được gặp vị Pháp sư này. Tôi thấy được Tịnh Không lão pháp sư chân thật là soi sáng cho mọi người, một vị Pháp sư giảng kinh thuyết pháp, tôi nhìn thấy cái hình tướng của Ngài như vậy trong lòng rất là hoan hỷ. Nhưng mà do vì Lão pháp sư chỉ nán lại ở chùa Quang Hiếu một thời gian rất ngắn mà người thì rất nhiều, trong vội vàng như vậy mẹ con chúng tôi cũng không thể nói chuyện nhiều được với Lão pháp sư. Nhưng may mắn là sau khi Mao Sâm đến Mỹ du học, trường đại học sở tại lại ở  rất gần đạo tràng Tịnh Tông Học Hội Dalas, Mỹ do Lão pháp sư Tịnh Không thành lập. Tôi liền nói với con trai rằng con nên đi lại đạo tràng nhiều một chút, đi đến đó học tập. Học tập điều gì? Là học tập những điều luật thanh tịnh. Cho nên Mao Sâm đã tận dụng những ngày nghỉ của mình đi đến Tịnh Tông Học Hội Dalas của Lão pháp sư để giúp đỡ một số việc công ích như là giúp quét nhà, giúp rửa nhà vệ sinh, giúp đổ rác, v.v… Ngoài ra thì còn tham gia một số hoạt động hộ sinh và phóng sinh, và ăn cơm chay ở đó nữa. Đặc biệt là ở đó có cơ hội được nghe Lão Pháp Sư giảng kinh thuyết pháp. Sau này chúng tôi cũng dần dần hiểu ra, học vấn trong Phật kinh là rất lớn! Vũ trụ là hình thành như thế nào? Tại sao trong đời người có người có cuộc sống rất là hạnh phúc, nhưng mà cũng có người có cuộc sống rất là đau khổ? Có người thì rất giàu, có người thì rất nghèo? Có người thì rất là cao quí, có người thì rất là thấp hèn? Những điều này trong Phật kinh đều có câu trả lời. Cho nên chúng tôi cảm thấy trong Phật kinh có trí tuệ.
Phật giáo là một loại giáo dục, có thể hoàn thiện và bổ sung cho loại giáo dục từ tiểu học đến đại học của chúng ta hiện tại.
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc vào năm 67 sau Công Nguyên. Khi đó là triều đại Vĩnh Bình Minh Đế Đông Hán năm thứ mười. Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài là một vị hoàng tử của Ấn Độ. Hồi còn trẻ, khi Ngài nhìn thấy hiện tượng sinh lão bệnh tử, thế là Ngài cảm thấy những cái khổ nhân sinh này mọi người đều không có cách nào tránh khỏi, cho dù là vương tử thì cũng không có cách nào trốn tránh. Do vậy, Ngài đã cảm ngộ rồi từ bỏ vương vị của mình, rời bỏ gia quyến của mình mà xuất gia tu đạo, lập chí là phải hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh, để từ đó giải thoát cái khổ của nhân sinh. Sau cùng thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã chứng đạo dưới cội Bồ Đề, cũng chính là Ngài đã minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Ngài có thể thành Phật là khiến cho sự giác ngộ, ánh quang minh trí tuệ vốn có trong lòng mình toàn bộ phát lộ ra. Cho nên về sau Thích Ca Mâu Ni Phật đã dành trọn phần đời còn lại của mình để làm công tác giáo dục. Do đó  Phật giáo là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, gọi tắt là giáo dục của Phật Đà. Cho nên Phật giáo dạy chúng ta những gì? Phật giáo dạy chúng ta là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Nhân sinh chính là bản thân chúng ta, vũ trụ là hoàn cảnh sống của chúng ta. Phật dạy chúng ta cần phải giác ngộ, trong thì giác ngộ bản thân cuộc sống chúng ta, ngoài thì giác ngộ hoàn cảnh sinh hoạt này. Chân chánh giác ngộ rồi thì chúng ta mới có thể chi phối được vũ trụ này, mới có thể chi phối cuộc sống của chính mình, gọi là được đại tự tại – đạt được đại giải thoát. Nếu như không giác ngộ vậy thì sẽ bị hoàn cảnh nhân sự của chúng ta chi phối. Chịu sự bó buộc của nó thì không thể nào được tự tại. Cho nên người người đều nên tiếp nhận sự giáo dục của Phật Đà.
Cương lĩnh giáo dục của Phật giáo hàm chứa ngay trong danh tự Thích Ca Mâu Ni Phật. “Thích Ca” có nghĩa là nhân ái, từ bi, là ý nói có thể giúp đỡ cho chúng sanh. “Mâu Ni” có nghĩa là yên tĩnh và thanh tịnh, là có trí tuệ đầy đủ viên mãn, Ngài có thể hồi quang phản chiếu mà đoạn trừ phiền não. Cho nên nói Phật giáo là nền giáo dục từ bi, nhân ái và trí tuệ, đó là nền giáo dục triết lý thánh hiền. Nếu như có người hỏi Phật giáo là gì, chúng ta có thể dùng một câu nói để trả lời họ. Đó chính là: Chưác mạc tác, chúng thiện phụng hành; tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”.
Câu thứ nhất, “chư ác mạc tác” có nghĩa là hết thảy những việc ác, những sự việc trái loạn kỹ cương phép nước, không có đạo đức thì những việc này đều không làm. Còn tất cả những sự việc đều lợi nước lợi dân, vì nhân dân phục vụ thì những việc này gọi là “chúng thiện phụng hành”. Nếu như “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” mà chúng ta làm được rồi thì mỗi một con người nhất định sẽ có một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn, xã hội nhất định sẽ được hài hòa.
Còn “Tự tịnh kỳ ý” thì nói là ba nghiệp tThân - khẩu - ý của chúng ta đều phải được thanh tịnh. Tháng 4 năm ngoái, ở Hàng Châu có tổ chức “Luận Đàn Phật Giáo Thế Giới”, chủ đề là “Thế Giới Hài Hòa – Bắt Đầu Từ Tâm”, chính là nói tâm tịnh thì quốc độ tịnh, tâm an thì chúng sanh an, tâm bình thì thiên hạ bình. Thế nên muốn cho quốc độ chúng ta được thanh tịnh, muốn cho thế giới chúng ta được hài hòa thì nhất định trong tâm phải biết buông xuống những thứ phiền não ô trược của chúng nhà Phật có tham thiền, ngồi tĩnh tọa hoặc là thông qua tụng kinh, niệm Phật, v.v… Đây là những pháp môn không giống nhau dùng để làm sạch cái tâm của chúng ta.
Mục đích cuối cùng của nền giáo dục Phật giáo chính là giúp đỡ con người hồi phục trí tuệ viên mãn vốn có của mình. Cái đại trí tuệ này là người người đều sẵn có đầy đủ. Có được đại trí tuệ viên mãn này, cái trí tuệ này khởi dụng thì có thể giải quyết được hết thảy những vấn đề về vũ trụ nhân sinh, chân chánh đạt đến lìa khổ được vui. Nói tóm lại, nền giáo dục của Phật Đà là nền giáo dục chí thiện viên mãn  của Phật Đà đối với chúng sanh chín pháp giới. Nếu như nói nền giáo dục của Khổng Tử là giúp chúng ta một đời, thì giáo dục của Phật Đà là ba đời, là khối lập thể, khiến chúng ta có thể đạt đến lìa khổ được vui, cứu cánh viên mãn.
Sau khi Mao Sâm tiếp cận Lão pháp sư thì bắt đầu văn kinh nghe pháp. Người làm mẹ nhìn thấy đứa con mình mở mang trí tuệ, tâm địa cũng gia tăng thêm sự khoan dung và thiện lương, phẩm chất đạo đức không ngừng tăng lên. Nội dung trong Phật pháp là rất nhiều nhưng phẩm đức cơ bản là mười điều thiện. Mười điều thiện này là: Một là không sát sinh, hai là không trộm cắp, ba là không tà dâm, bốn là không nói dối, năm là không nói lưỡi hai chiều, sáu là không nói lời ác, bảy là không nói lời thêu dệt, tám là không tham lam, chín là không sân hận, mười là không si mê. Mười loại đức hạnh tốt đẹp căn bản này Mao Sâm rất là chú ý trong đời sống của chính mình, dần dần bồi dưỡng và củng cố.
Khi còn du học, Mao Sâm cũng muốn những bạn bè thân thích của mình ở Quảng Châu Đại Lục đều có thể nghe xem được những băng đĩa do Lão Pháp Sư giảng, cho nên khi trong đạo tràng tại Dalas muốn trang bị lại mới hơn, đổi mới sàng lọc những thiết bị đã cũ, trong đó có một cái máy thu băng, loại một cái chép thành ba cái vẫn còn mới nhưng mà vì lắp đặt thiết bị mới nên không dùng nữa, Mao Sâm quyết định mang nó về Trung Quốc Đại Lục. Năm đó khi về Trung Quốc thăm thân, cậu ấy đã vác cái máy này về. Khi đó đến Hồng Kông còn mua thêm một cái ổn áp nữa. Tại vì cái máy này rất nặng, cho nên khi vác nó đi thì những thứ khác đều không mang được, đến nỗi một bộ đồ cũng không mang được. Sau khi đến Quảng Châu thì đã đem nó tặng cho Hiệp Hội Phật Giáo thành phố Quảng Châu. Lúc đó thì pháp sư Vân Phong - Hội trưởng Hiệp Hội Phật Giáo Quảng Châu đã tiếp nhận sự việc này. Mao Sâm hy vọng sau khi mang máy này về có thể làm ra được nhiều hơn nữa những loại băng đĩa, chính là hy vọng mọi người có thể được nghe nhiều hơn, có thể được giác ngộ.
Tôi nhớ cách đây không lâu, khi đi qua Trường đại học Giang Đầu của thành phố Giang Đầu tỉnh Quảng Đông, tôi nhìn thấy trong trường đại học có một cái biểu ngữ viết là: “Kiến lập tự ngã – truy cầu vô ngã”. Kiến lập tự ngã là phải hoàn thiện chính mình, truy cầu vô ngã là đem bản thân buông xả, toàn tâm toàn ý mà vì đại chúng phục vụ. Cái khẩu hiệu này đề xuất ra được tôi nghĩ không đơn giản chút nào. Đây là đối với sinh viên hay là các thầy cô mà nói đều là một yêu cầu rất cao. Mỗi một học sinh chúng ta đều nên từ trên phương diện này mà làm một chút thử nghiệm, chính là nói bạn trong rất nhiều hoạt động có thể đem chính mình từ từ mà buông bỏ. Mao Sâm mang vác cái máy từ Dalas về còn phải chuyển máy bay rồi đến Hồng Kông lại phải chuyển nữa, như vậy mà nói thì những đồ cá nhân đều không mang về. Đây cũng là một cách thử nghiệm nho nhỏ, có thể truy cầu vô ngã – buông xả tự thân. Đương nhiên cái gọi là truy cầu kiến lập tự ngã là hoàn thiện chính mình. Chúng ta học Phật chính là hoàn thiện chính mình. “Truy cầu vô ngã”, trên văn tự đề như vậy nhưng kỳ thực là truy cầu cái vô ngã này vẫn là có cái truy cầu rất chấp trước ở bên trong. Cho nên chúng ta chính là phải từ từ xem nhẹ cái ta, từ từ mà buông xả mà toàn tâm toàn ý phục vụ cho đại chúng, xem nhẹ bản ngã đi. Cho nên, tôi cảm thấy Mao Sâm chân thật là “gần người nhân, tốt vô hạn; đức tiến dần, lỗi ngày giảm”.
Loại giáo dục tố chất này trong Đệ Tử Quy sau cùng còn đưa ra một điều là “có dư sức thì học văn”. Lúc Mao Sâm tốt nghiệp cấp hai, khi đó thời gian nghỉ hè tương đối dài, không có việc gì để làm, cũng đã thi xong lên trung học. Tôi chỉ vào cái tủ sách trong nhà mà nói với Mao Sâm: “Con đem cái tủ sách này sắp xếp lại cho ngay ngắn, rồi con hãy chọn ra một ít sách để mà học tập”. Từ trong rất nhiều sách như vậy mà cậu ấy lại có thể chọn ra một bộ sách tên là “Tuyển Tập Tư Liệu Sử Học Triết Trung Quốc”. Trong bộ sách này đã giới thiệu về Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Quốc một cách rất rõ ràng, giới thiệu “Trang Lão Chi Học”, giới thiệu “Đạo Đức kinh”. Tại đây chúng ta yêu cầu Mao Sâm đem những cái đã học được liên quan đến tư tưởng của Nhà Nho và Nhà Đạo đơn giản giới thiệu một chút với mọi người. Đây cũng chính là văn hóa truyền thống của Trung Quốc chúng ta.
Con: Tư tưởng Nhà Nho có thể nói là nguồn gốc của nền văn hóa Trung Hoa, không có tư tưởng của Nhà Nho thì cũng không có văn hóa Trung Hoa. Tư tưởng Nhà Nho rốt cuộc bao hàm những nội dung cơ bản gì? Nếu như chỉ dùng một câu nói để khái quát thì có thể dùng một câu trong Hán Thư là: “Du văn vu lục kinh chi trung, lưu ý vu nhân nghĩa chi tế, tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Vũ, tôn sư Trọng Ni”, đây là nội dung cơ bản của nhà Nho. Có thể thấy trong đây có bốn từ mấu chốt. Thứ nhất là “Lục Kinh”, thứ hai là “Nhân Nghĩa”, thứ ba là “Nghiêu Thuấn Văn Vũ”, thứ tư là “Trọng Ni”.
Vậy “Lục Kinh” là gì? Lục kinh chính là sáu bộ kinh điển chủ yếu trong nhà Nho. Đó là Thi Kinh, Thượng Thư, Nghi Lễ, Chu Dị, Xuân Thu và Nhạc Kinh. Nhưng vì Nhạc Kinh đã bị thất truyền nên chỉ còn lại năm kinh. Sau này vào thời Tống triều thì Chu Hỷ lấy thêm ra trong kinh điển Nhà Nho bốn quyển là Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn quyển này gọi là Tứ Thư mà chúng ta thường nói là Tứ Thư Ngũ Kinh. Tư tưởng Nho gia bắt đầu từ Triều Hán, trong lịch sử được tôn xưng là văn hóa Trung Quốc chính thống.
Yếu tố thứ hai là “Nhân Nghĩa”. Đây cũng là hai phạm trù chủ yếu của Nhà Nho. Mạnh Tử nói: “Nhân, nhân tâm dã; Nghĩa, nhân lộ dã”, đây là chỉ dạy con người trong tâm cần phải có Nhân mà hành sự phải tuân theo Nghĩa. Cái Nghĩa này là phải nên làm được.
Yếu tố thứ ba là: “Nghiêu Thuấn Văn Vũ”. Đây là chỉ bốn vị hoàng đế của Trung Quốc cổ đại. “Cái đạo của vua Nghiêu vua Thuấn là do  Hiếu để mà thành”. Nhà Nho thì nói là: “Từ vua cho đến dân đều lấy tu thân mà làm gốc”. Nói đến tu thân thì Đệ Tử Quy có dạy là “Hiếu để trước”. Cho nên hai vị vua Nghiêu Thuấn đã trở nên vĩ đại, lấy hiếu trị thiên hạ, lấy đức làm mẫu mực trị nước. Văn Vũ là chỉ Chu Văn Vương và Chu Vũ Vương. Họ đã đặt ra việc hoàn thiện điển chương lễ nghĩa. Lấy Lễ Nhạc để giáo hóa bá tánh là mẫu mực của “kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”.
Yếu tố thứ tư là “Trọng Ni”. Đây thì chúng ta đã rất rõ về đức Khổng Tử rồi. Khổng Tử họ Khâu tên là Trọng Ni, sinh năm 551 và mất năm 479 trước công nguyên. Ngài là người nước Lỗ, chính là nhân sĩ của huyện Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông bây giờ. Hưởng thọ 73 tuổi. Ông là người sáng lập ra Nho giáo. Nghe nói lục kinh trong nhà Nho đều là do chính tay Khổng Tử xác lập và chỉnh lý. Văn hóa mấy nghìn năm trước thời của Khổng Tử nhờ có Ngài mà được tiếp tục lưu truyền, văn hóa mấy nghìn năm sau thời của Khổng Tử cũng nhờ có Ngài mà khai mở, cho nên người ta xưng tán Khổng Tử rằng: “Trời không sinh Khổng Tử, vạn cổ như đêm trường”. Lại còn khen rằng: “Đức ứng thiên địa, đạo quán cổ kim, san thuật lục kinh, thùy hiến vạn thế”. Đây là nói đức hạnh của Khổng Tử đã tương ứng với trời đất. Cái đạo của ông xuyên suốt từ cổ chí kim, không những biên đính ra lục kinh mà còn đem sự giáo hóa đó lưu truyền liên tục nghìn đời sau. Cho nên nhà Sử học Tư Mã Thiên đã tán thán Khổng Tử là:“Có thể gọi là chí thánh”. “Chí Thánh tiên sư Khổng Tử” - cách hành văn này cũng được ghi vào trong Luận Ngữ. Luận Ngữ được khen là “Hoa Hạ Thánh Kinh”.
Trên đây là giới thiệu đơn giản cho mọi người cái gọi là bốn yếu tố của nhà Nho: Lục kinh, Nhân Nghĩa, Nghiêu Thuấn Văn Vũ và Trọng Ni.
Nếu chúng ta đem tư tưởng Nho gia ví thành một cây đại thụ, vậy thì cái gốc cây là ở đâu? Cái gốc cây này chính là Đệ Tử Quy. Nếu như nói không có cái nền tảng Đệ Tử Quy thì bốn cái yếu tố trong Nhà Nho cũng không có cách nào làm cho được. Đệ Tử Quy nói những gì? Phía trước chúng ta đã nói qua, Đệ Tử Quy chính là giảng nói những tố chất cơ bản để làm người.
Tiếp đến là xin giản yếu giới thiệu một chút về tư tưởng Đạo Gia với mọi người. Nếu như nói tư tưởng Nho Gia là xu hướng chính của nền văn hoá Trung Quốc thì tinh thần của Đạo gia cũng thẩm thấu vào trong cái tiềm thức của nền văn hóa Trung Hoa. Nhà Nho bước vào xã hội tinh thần rất mạnh thì Nhà Đạo bước vào xã hội rất sâu. Tư tưởng của nhà Đạo thì lấy Lão Tử và Trang Tử làm đại biểu. Đặc biệt là Đạo Đức Kinh của Lão Tử nổi tiếng thế gian. Tinh thần Đạo Gia là: “nhất ngôn dĩ tế chi” chính là “Đạo pháp tự nhiên”. Cái tự nhiên nói ở đây không phải là thế giới tự nhiên hay là khoa học tự nhiên mà chúng ta thường nói. Nó là chỉ một loại trạng thái tự nhiên của vũ trụ bản lai không tịch. Cái trạng thái này không có cách nào dùng ngôn ngữ hay tư duy để có thể đạt được, rất khó để có thể biểu đạt được.
Đạo gia đề xướng “vô vi nhi vô bất vi”. Cái “vô vi” ở đây cũng không phải là nói là việc gì đều chẳng làm, ngồi không chẳng làm gì. Nó là dạy người trong lòng có thể buông bỏ được mất, buông bỏ khổ vui mà thuận theo tự nhiên, mà không vọng tưởng. Khi đó tôi học tập Đạo Đức Kinh, ấn tượng sâu nhất là câu đầu tiên và câu cuối cùng của quyển kinh này. Bây giờ xin được chia sẻ cùng mọi người.
Đạo Đức Kinh, câu đầu tiên nói rằng: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; Danh khả danh, phi thường danh”. Đây nói rằng chân đạo là không có cách nào dùng ngôn ngữ để biểu đạt. Nếu như có thể nói ra được, có thể nói ra được tình trạng thì đó không phải là thường đạo. Câu cuối cùng là: “Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh”. Ở đây nói rằng, đạo lý và cách làm của thánh nhân chính là nỗ lực phụng hiến, vì nhân dân phục vụ, nhưng mà tuyệt đối không tranh công, không tranh danh, không tranh lợi. Chúng ta có thể thông qua hai câu nói này thể hội qua một chút thái độ xử thế và phong cách của Đạo Đức Kinh. Vậy cái gốc của nhà Đạo là ở đâu? Nếu như nói Đạo Đức Kinh là một cây đại thụ thì cái gốc này nằm ở Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, vì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là đạo lý cảm ứng tự nhiên và nhân quả báo ứng mà Lão Tử truyền dạy cho người đời sau. Bởi vì con người chỉ cần có thể tin sâu nhân quả báo ứng, có thể thuận theo đạo lý cảm ứng tự nhiên mà làm việc, sau cùng người đó có thể đạt được cái đạo pháp tự nhiên – cảnh giới của “vi nhi bất tranh”.
Mẹ: Sách là bậc thang của tiến bộ nhân loại. Người xưa nói: “Mở sách có ích”. Xem ra câu nói này rất có đạo lý. Trong nhà chúng ta nên chuẩn bị một ít sách cất giữ để cho con cái có một môi trường mà học tập, có một chút bầu không khí của việc học tập. Con cái thường thường chủ động đi tìm một số sách để xem, đều có thể gia tăng chính kiến của bản thân. Cách đây không lâu, chúng ta thấy các thành phố trong nước đều chú trọng việc học tập, đọc sách hay. Chúng ta thấy hồi tháng năm, bộ phận tuyên truyền của thành phố Giang Đầu lần đầu tổ chức Hội nghị Luận Đàm Gia Đình Đọc Sách. Đề ra cái khẩu hiệu gì? Đề ra cái gọi là: “Sách hay là bạn đồng hành”. Phải làm bạn với sách, làm bạn với tri thức, tạo ra tủ sách hay cho gia đình. Câu nói: “Tạo ra tủ sách hay cho gia đình” trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói qua bao giờ, hiện nay đều kêu gọi chúng ta phải tạo ra tủ sách hay trong gia đình. Cho nên trong những hội nghị này và việc xem trọng việc học việc đọc sách hay đều cho chúng ta áp dụng trong Đệ Tử Quy là “có dư sức thì học văn”, đã đưa ra một hoàn cảnh rất tốt, một bầu không khí rất tốt.
Vừa rồi chúng tôi đã báo cáo về việc bồi huấn các loại tố chất đối với con cái chúng ta. Bồi huấn những tố chất này thì Đệ Tử Quy đã dạy chúng ta là Hiếu - Để - Cẩn - Tín - Ái chúng - Thân nhân - Học văn, bồi huấn tố chất của bảy phương diện này. Cho nên chúng ta sâu sắc mà thể hội được rằng, Đệ Tử Quy chính là một tài liệu giảng dạy tốt nhất để tiến hành giáo dục tố chất cho con cái trong gia đình chúng ta.
Sau đây chúng tôi xin tiếp tục báo cáo với mọi người về phương diện thứ năm là: Vấn đề hàng đầu của giáo dục trong gia đình - Đó là cùng lúc tiếp thu giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền.
********************
Vấn đề thứ năm:
Vấn Đề Hàng Đầu Của Giáo Dục Trong Gia Đình - Đó Là Cùng Lúc Tiếp Thu Giáo Dục Nhà Trường, Giáo Dục Xã Hội Và Giáo Dục Triết Lý Thánh Hiền.
Việc giáo dục trong gia đình cho con cái nhất định phải dung hợp bốn loại giáo dục này. Chúng ta vừa mới nói bốn loại giáo dục bao gồm giáo dục trong gia đình, giáo dục của nhà trường, giáo dục ngoài xã hội và giáo dục triết lý thánh hiền. Bốn loại giáo dục này đều có thể dung hợp và thông suốt trong bản thân của con trẻ, như vậy thì đứa trẻ này mới có thể từ từ trở thành một nhân tài của xã hội. Nhưng mà gia đình rất là quan trọng. Gia đình là lớp học đầu tiên của đứa trẻ, cũng là lớp học vĩnh cửu của nó. Người mẹ là cô giáo chủ nhiệm đầu tiên của đứa trẻ, cũng là cô giáo vĩnh cửu của nó. Cha mẹ đều là những người thầy vĩnh cửu của con trẻ. Cha mẹ đã qua đời, đã rời xa, nhưng khi con cái cầm hình cha mẹ lên thì vẫn còn lại những điều dạy bảo của cha mẹ. Một khi nhớ lại thì cảm thấy rằng cha mẹ vẫn là người thầy của chúng, vẫn còn cho chúng rất nhiều sự chỉ dạy và giúp đỡ.
Lão Xá tiên sinh, các bạn rất nhiều người đều biết. Ông là người Trung Quốc sau giải phóng, một kịch gia và tiểu thuyết gia hiện đại nổi tiếng. Trong rất nhiều tác phẩm của ông mà rất nhiều bạn đã xem qua tác phẩm của ông như là Con Lạc Đà May Mắn và Trà Quán nổi tiếng trong lẫn ngoài nước, có tác phẩm đã được dựng thành phim. Nửa phần đầu cuộc đời của Lão Xá tương đối là gian khổ. Mất cha khi được một tuổi rưỡi, sống với người mẹ vất vả nuôi một lúc năm anh em, trải qua cuộc sống vô cùng khó khăn, cho nên cuộc sống của ông thời thơ ấu và thời thiếu niên đều rất khổ, nhưng ông rất có chí khí, đã quyết tâm cố gắng cho tiền đồ rất mạnh mẽ. Sau đó Lão Xá đã làm đến giáo sư đại học, nhưng mà cuộc sống mẹ ông và năm người con vẫn vô vàng khó khăn, phải đi giặt đồ cho người ta, may quần áo như vậy để sống qua ngày. Sau này Lão Xá trở thành một văn học gia nổi tiếng, ông nhớ lại những điều giáo dục mà ông nhận được, rồi viết ra một đoạn văn ý tình sâu xa. Ông viết: “Từ trường tư thục cho đến tiểu học, đến trung học, tôi đã trải qua ít nhất cũng vài trăm vị thầy cô giáo. Trong đó có người có ảnh hưởng rất lớn với tôi, có người chẳng có ảnh hưởng gì. Nhưng mà vị thầy chân thật của tôi, người đã truyền tính cách cho tôi chính là mẹ tôi. Mẹ tuy là không biết chữ, nhưng bà đã cho tôi sự giáo dục trong cuộc sống”. Mẹ của Lão Xá tiên sinh là một người phụ nữ Trung Quốc rất cần cù, lương thiện, rất thành thật, rất dũng cảm. Bà là một người mẹ kiên cường. Vậy bà đã truyền dạy những gì cho Lão Xá? Làm sao thành cái giáo dục cuộc sống của Lão Xá? Bà đã đem cái cần cù, dũng cảm, kiên cường, cách đối đãi với người thành khẩn và lương thiện của bản thân mà truyền lại cho con trai mình, cho nên đã khiến cho sự nghiệp của con trai mình được thành công. Hiện tại chúng ta khi đọc đến tác phẩm của ông đều rất là cảm động. Vậy chúng ta có thể thấy được rằng giáo dục trong gia đình là căn bản, là hàng đầu. Giáo dục ở nhà trường là sự nối tiếp giáo dục của giáo dục gia đình, giáo dục ngoài xã hội là sự mở rộng giáo dục của giáo dục gia đình, và giáo dục của triết lý thánh hiền là thăng hoa giáo dục gia đình.
Vào cái năm mà Mao Sâm tốt nghiệp trung học là năm 1991. Trong thiệp chúc mừng sinh nhật gửi cho tôi, cậu ấy đã viết:
“Mẹ kính yêu, chúc mẹ sinh nhật vui vẻ!
Khi con mặc lên bộ quần áo đẹp mà mẹ cho, khi con mang chiếc đồng hồ mà mẹ tặng, khi con nhận lấy từng thứ từng thứ mà mẹ cho, con cảm nhận được sự quan tâm trong tình thương yêu của mẹ, sự vuốt ve âu yếm của mẹ.
Khi mà từ vài năm trước mà mẹ đã bắt đầu ấp ủ chuẩn bị cho con thi vào đại học,
Khi mà mẹ đặt ra mục tiêu cho con là “đứng nhất lớp” giờ đã thực hiện được.
Khi mà mẹ lần lần lượt lượt giảng giải cho con nghe cái đạo lý làm người,
Khi mà mẹ dạy con bỏ ác hướng thiện, quyết sách nhân sinh,
Thì con đã cảm nhận được cái hàm ý sâu sắc và cái thăng hoa trong tình thương yêu của mẹ!
Trong mắt của con, mẹ không những là vị thần bảo hộ, mà còn là người dẫn đường chỉ lối cho con. Nếu như nói con là một chiếc thuyền nhỏ trong biển đời sóng to gió lớn, vậy thì mẹ chính là người cầm lái trên chiếc thuyền đó!”
Xin các bà mẹ hãy chú ý, chúng ta đang gánh vác trên vai cái sứ mệnh gì vậy? Chúng ta là người cầm lái và dẫn đường cho con cái. Đức Khổng Tử mất cha từ khi mới có ba tuổi, giả như không có mẹ của Khổng Tử vậy thì lấy đâu ra “Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử” đây? Còn Mạnh Tử thì mất cha từ năm bốn tuổi, giả như không có ba lần dời nhà một cách đầy trí tuệ của mẹ Mạnh Tử, nếu không có sự phán đoán mang tính then chốt thì lấy đâu ra “Á Thánh Mạnh Phu Tử” đây? Cho nên đứa trẻ tốt là nhờ dạy dỗ mà ra! Tác phong tốt là nhờ dẫn dắt mà ra! Thành tích tốt là nhờ giúp đỡ mà ra. Sự dạy dỗ của người mẹ chính là cái gốc của thế giới hòa bình.
Trong phương diện giáo dục gia đình, ngoài những điều chúng ta vừa nói ở trên, ngoài sự giáo dục căn bản và giáo dục tố chất của giáo dục trong gia đình ra, thì những thứ nhỏ nhặt và quan trọng trong đời sống người làm mẹ như chúng ta đều phải giúp cho con trẻ nắm bắt cho được tốt. Thế nào được gọi là nắm bắt những thứ quan trọng? Đó là dạy con cái như thế nào để làm một con người. Sao lại bàn đến chuyện làm một con người? Chính là vì phải biết được đạo đức là gì?
Vậy đạo đức là gì? Đức là gì? Tổ tiên chúng ta từ 4.500 năm trước thì đã dạy chúng ta nhận biết cái Nhân Luân Đại Đạo này rồi. Đó là Cha con, Vua tôi, Chồng vợ, Anh em, Bạn bè, ngũ luân này gọi là nhân luân đại đạo. Một đời chúng ta không thể nào tách rời năm mối quan hệ này. Xử lý tốt năm mối quan hệ này chính là cái học an thân lập mạng của chúng ta, cũng là nền tảng cho quốc gia và xã hội hài hòa. Làm như thế nào mới có thể xử lý tốt năm mối quan hệ này? Tổ tiên đã cho chúng ta một kinh nghiệm. Muốn xử lý tốt năm cái mối quan hệ này thì chúng ta phải làm được cha con có thân, vua tôi có nghĩa, chồng vợ có biệt (chồng vợ có biệt nghĩa là có khác biệt, nam lo việc bên ngoài, nữ thì lo việc bên trong gia đình, nên gọi là chồng vợ có biệt), lớn nhỏ có thứ tự, bạn bè có tín. Cho nên vừa rồi chúng ta có nói đến ngũ luân là cha con – vua tôi – chồng vợ - anh em – bạn bè, đem áp dụng vào ngũ luân mà xử lý tốt năm mối quan hệ này. Cụ thể hơn là làm người phải làm tốt “Tám đức xưa”. “Tám đức xưa” là nền tảng làm người của chúng ta. Cổ bát đức chính là Hiếu – Để – Trung – Tín – Lễ – Nghĩa – Liêm – Sỉ. Tiếp theo Mao Sâm con hãy giới thiệu với mọi người một chút về tám phẩm đức này đi.
Con: Thưa vâng! Tám phẩm đức này gọi là Hiếu – Để – Trung – Tín – Lễ – Nghĩa – Liêm – Sỉ.
Cái thứ nhất, Hiếu là “đức chi bổn dã”, có nghĩa là căn bản của đạo đức. Vậy Hiếu là gì? Phụng sự cha mẹ thì gọi là hiếu. Thật sự lấy tấm lòng yêu thương, tấm lòng hiếu thuận, tấm lòng cung kính để mà đối đãi với cha mẹ, để mà tận hiếu, đây gọi là “gốc của đức” vậy. Đem cái tâm hiếu này mà mở rộng ra thì có thể phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Đức thứ hai là “Để”. Để là “đức chi tự dã”. Cái “để” này trong ngũ luân nói là: “Trưởng ấu hữu tự”. Phụng sự huynh trưởng của mình, hữu ái anh em của mình thì đây gọi là “Để”. “Để” hàm chứa ý nghĩa cung kính. Đem cái tinh thần của “Để” mà mở rộng, thì là tôn trọng sư trưởng, mà trong công việc cũng biểu hiện ra là tôn trọng sự nghiệp của mình, tôn trọng lãnh đạo của mình, tôn trọng đồng nghiệp của mình thì có thể chung sống hòa thuận với tất cả mọi người.
Đức thứ ba là “Trung”. Chỗ này nói là “Đức chi chính dã”. Người xưa có nói: “Lấy chính mình làm gương có thể độ hóa người khác”. “Tận kỷ chi vị trung”, tận tâm tận lực mà làm việc, mà phụng hiến thì gọi là “Trung”. “Trung” là gốc của “Hiếu”, là đem cái tâm hiếu mở rộng ra vì đất nước vì nhân dân phục vụ.
Đức thứ tư là “Tín”. Tín là “đức chi cố dã”. Người xưa nói: “Nhân vô tín tắc bất lập”. Làm người khi làm việc thì phải nhấn mạnh đến sự thành tín. Trong xã hội thì người ta phải nói đến chữ tín, nói đến uy tín.
Đức thứ năm là “Lễ”. Lễ là “đức chi phạm dã”. Đây là chỉ hết thảy những Quy phạm – Nghi tắc – Lễ tiết. Ngoài xã hội phải tuân giữ pháp luật, tuân giữ Quy tắc chế độ, tuân giữ lễ phép. Đây đều là phạm trù của “Lễ”.
Đức thứ sáu là “Nghĩa”, được gọi là “đức chi nghi dã”. Chữ “Nghi” này nghĩa là nên làm, nên tuân theo. Nguồn gốc của nó ở trong ngũ luân đạo đức là “Vua tôi có nghĩa”, mở rộng ra là trong xã hội khi làm tất cả mọi việc đều phải thấy lợi thì nghĩ đến nghĩa vụ. Nếu như thấy được cái lợi mà quên đi cái nghĩa thì đây gọi là “thấy lợi quên nghĩa, đây là không có đạo đức.
Đức thứ bảy là “Liêm”, gọi là “đức chi tiết dã”. Cái “tiết” này là chỉ khí tiết. Khí tiết phải thanh cao, phẩm hạnh phải liêm khiết. Đây là trong công việc phải hiểu được liêm khiết và tôn trọng công lý. Nhân phẩm của chính chúng ta cũng phải thanh cao liêm khiết.
Đức thứ tám là “Sỉ”. “Sỉ” là “đức chi cơ dã”. Đây là nền móng của đạo đức, tại sao vậy? Nếu như con người biết sỉ thì chúng ta nói con người này có lương tâm. Biết sỉ thì có thể khiến cho chúng ta không đến nỗi mất đi lương tâm của mình. Ở đây cái gọi là ngũ luân đạo đức, hiếu để trung tín lễ nghĩa liêm sỉ và ngũ luân mà khi nãy mẹ tôi đã nói đều có thể làm được tốt, đây chính là có thể làm được đến chỗ biết sỉ, mở rộng ra ngoài xã hội có thể làm được đoạn trừ tất cả ác, hết thảy những việc vi phạm pháp luật, làm loạn kỷ cương phép nước đều không làm. Tám cái đức này là nguyên tắc làm người.
Hiện nay chủ tịch Hồ Cẩm Đào - người lãnh đạo đất nước cũng đề ra cái gọi là “Bát vinh bát sỉ”.Trên thực tế cái “bát vinh bát sỉ” này cũng chính là  hiện đại hóa của  bát đức. Chúng ta xem trong “bát vinh bát sỉ” nói những gì.
1.      Lấy yêu mến tổ quốc làm vinh, lấy nguy hại tổ quốc làm sỉ, đây là nói đến “trung”.
2.      Lấy phục vụ nhân dân làm vinh, lấy rời bỏ nhân dân làm sỉ. Đây là nói đến “hiếu”.
3.      Lấy tôn sùng khoa học làm vinh, lấy ngu muội vô tri làm sỉ. Đây là nói đến “tín”.
4.      Lấy cần cù lao động làm vinh, lấy siêng ăn nhác làm làm sỉ. Đây là nói đến “sỉ”.
5.      Lấy đoàn kết tương trợ làm vinh, lấy tổn người lợi mình làm sỉ. Đây là nói đến “Để”.
6.      Lấy thành thật giữ tín làm vinh, lấy thấy lợi quên nghĩa làm sỉ. Đây là nói đến “tín và nghĩa”.
7.      Lấy tôn kỹ giữ pháp làm vinh, lấy vi pháp loạn kỹ làm sỉ. Đây là nói đến “Liêm và Sỉ”.
8.      Lấy gian khổ phấn đấu làm vinh, lấy kiêu sa dâm dật làm sỉ. Đây là cũng là nói đến “Liêm và Sỉ”.
Mẹ: Năm ngoái, Mao Sâm lấy đạo đức làm nội dung cho một số bài báo cáo diễn giảng, tiến hành diễn giảng các nơi trên thế giới. Trong đó bài báo cáo “Minh đạo đức – Tri vinh nhục” khi diễn giảng trong rất nhiều trường đại học đều nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt. Tại đại học Bắc Kinh, tại đại học Khoa Học Kỹ Thuật Bắc Kinh, tại đại học Sư Phạm Bắc Kinh, tại đại học Trung Dược Bắc Kinh, v.v… các sinh viên đều rất là hoan nghênh. Sau đó được trường Trung Ương Đảng Bắc Kinh ghi hình giám chế làm thành tư liệu học tập cho tất cả các trường Đảng trong cả nước với nhan đề là “Cách nhìn về vinh nhục trong xã hội chủ nghĩa”. Ngoài ra Mao Sâm còn đem đạo đức làm người làm thành nội dung cho bài báo cáo với đề mục: “Nền móng của thành công, hạnh phúc”. Khi diễn giảng tại Nam Kinh vào năm ngoái thì được Trung tâm Giáo Dục Đạo Đức Phụ Nữ và Nhi Đồng Trung Quốc chế tác làm thành tài liệu học tập cho 1.000 phòng dạy học trên cả nước. Vậy giáo dục trong gia đình phải nắm được cái căn bản này, chính là phải dạy cho con trẻ cái đạo đức làm người.
Vậy trong cuộc sống, làm thế nào để nắm bắt những thứ nhỏ nhặt của cuộc sống? Kỳ thực giáo dục thì không có gì là việc nhỏ cả, làm việc nhà cũng là giáo dục. Cho nên chúng tôi phải đặc biệt mà nhắc nhở những người cha người mẹ trẻ tuổi này, nếu muốn dạy con, nhất định phải dạy nó làm việc nhà, phải dạy trẻ con học cách tự lo liệu cuộc sống của bản thân. Hiện nay có những phụ huynh sắp xếp cho con cái quá nhiều lớp học tập ngoại khóa. Những lớp học về nghệ thuật cũng quá nhiều, như là lớp học đàn piano, lớp học thư pháp, lớp học vũ đạo, lớp học hội họa, còn có lớp võ thuật nữa, v.v... Trẻ con bận rộn từ thứ hai đến chủ nhật, không được nghỉ ngơi, còn bận hơn cả giám đốc nữa, cả ngày cứ vội vàng đi tiếp thu bài giảng, rồi đi nghe bài giảng. Trên thực tế, sự trưởng thành về trí tuệ học tập của con trẻ không phải hoàn toàn dựa vào việc bạn sắp xếp cho nó bao nhiêu lớp tài năng nghệ thuật hay bao nhiêu lớp kỹ thuật. Việc học của đứa trẻ đều là tăng trưởng về trí tuệ. Đứa trẻ học làm được việc nhà  đều có thể tăng trưởng được trí tuệ của nó.
Tôi còn nhớ khi Mao Sâm học lớp bốn, có một hôm chúng tôi tan ca trở về, tôi vừa mở cửa nhìn vào thì Mao Sâm liền chào tôi và nói: “Mẹ! Xin mời vào”. Tôi nhìn xem, thì ra đã làm xong một bàn đầy cơm canh, trên đó có trứng chiên, rau xào, còn cơm thì cũng nấu rất ngon, ngoài ra còn có một ít món phụ và món mặn đều đã dọn sẵn. Đây là lần đầu tiên con tôi chủ động làm một bữa cơm cho cha mẹ, cho nên tôi ấn tượng rất sâu. Nhưng mà chúng tôi cũng rất kinh ngạc. Kỳ thực là Mao Sâm ở nhà thường nhìn thấy chúng tôi làm việc nhà, cũng tham gia làm với chúng tôi như là quét nhà, đi đổ rác, ra quán tạp hóa gần nhà để mua tương mua giấm, rồi giúp rửa rau, xắt rau, v.v... đều là làm những công việc nhà này. Trong kỳ nghỉ đông chúng tôi đưa con đi về vùng nông thôn, đi về nhà ông bà nội, về quê chơi một chuyến, tham gia vào một số công việc đồng án, xem xem những loại hoa màu này mọc lên từ dưới đất như thế nào, xem xem rau cỏ lớn lên như thế nào. Những bạn nhỏ bây giờ nếu như bạn hỏi chúng là gạo từ đâu mà có thì chúng sẽ nói là từ siêu thị. Khó trách cổ nhân đã phải cảm thán rằng: “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”, nhưng trẻ con thì không biết. Chúng tôi dắt Mao Sâm đi về nông thôn để tham gia và học hỏi những công việc đồng án này. Được tham gia một số công việc đồng án ở nông thôn, thêm nữa được đi lại bằng chân không trên đất sét, được trèo cây (Mao Sâm trèo cây rất giỏi), được ra những con sông suối nhỏ để bơi lội, chơi cùng với trẻ con ở nông thôn. Mao Sâm từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng mua cho bất kỳ món đồ chơi nào cả. Tôi cảm thấy trời đất rộng lớn chính là nơi để chơi đùa.
Tính tự lập của Mao Sâm cũng khá mạnh, vì từ nhỏ, lúc mới ba tuổi tôi đã gửi hẳn vào nhà trẻ, cho nên từ ba tuổi tới sáu tuổi hoàn toàn là ở trong nhà trẻ, đến cuối tuần chúng tôi mới rước về nhà. Khi đó Mao Sâm vẫn còn là một đứa trẻ ba bốn tuổi mà thôi. Khi tôi đi rước là dắt cùng nhau đi bộ về nhà. Từ nhà trẻ mà đi về nhà của chúng tôi có đi ngang qua một công viên lớn. Đây là công viên Việt Tú của thành phố Quảng Châu. Trong công viên này có một ngọn núi, đây là công viên duy nhất có núi của thành phố Quảng Châu. Chúng tôi từ cửa phía nam của công viên đi qua cửa phía Bắc của công viên thì phải vượt qua một ngọn núi nhỏ. Khi đó tôi để cho Mao Sâm tự mình mang cặp. Trong cặp có rất là nhiều đồ đạc, nào là quần áo, nón nải, căn phồng như là một cái trống vậy. Lúc này gặp phải một bà lão đi bộ trong công viên. Bà nhìn thấy Mao Sâm mang một chiếc cặp to, bà liền nói: “Sao cô lại có thể để cho đứa nhỏ mang cặp sách vậy? Cô là người lớn phải xách phụ nó chứ!”. Bà lão này nói với tôi như vậy, tôi chỉ cười cười, lấy chiếc cặp trên người của con xuống. Sau đó, đợi cho bà lão đi xa rồi tôi lại lấy chiếc cặp đeo lên lại cho Mao Sâm. Mao Sâm từ nhỏ đã cùng tôi luyện tập đi bộ, leo núi, rồi đi dạo, cho nên thân thể khá là khỏe mạnh. Buổi sáng mỗi ngày đều cùng tôi vận động, bơi lội, cho nên từ khi trung học cho đến đại học Mao Sâm luôn là vận động viên bơi lội trong đội bơi lội của nhà trường. Khi cậu ấy học đại học, do bơi lội rất xuất sắc, tham gia cuộc thi bơi lội của trường đại học thành phố Quảng Châu và đạt được giải. Mao Sâm còn được trường học khi đó tặng cho một món tiền thưởng là 1.500 nhân dân tệ. Lúc đó, tiền lương của chúng tôi thông thường chỉ ở vào khoảng vài trăm nhân dân tệ trở lại, cho nên số tiền thưởng thể dục 1.500 tệ này đều làm mọi người rất ngưỡng mộ. Cho nên, chúng ta luyện tập những thói quen tốt để thân thể khỏe mạnh và cuộc sống độc lập cho con trẻ là vô cùng quan trọng. Đây đều không phải là chuyện nhỏ. Những thói quen sống tốt đẹp này là vốn liếng của cả một đời chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày tôi cũng không có hỏi con mình thích ăn món gì. Tôi nấu món gì thì ăn món nấy. Tôi cũng không mua cho con những bộ quần áo hàng hiệu hay những đôi giày thể thao hàng hiệu. Tôi từ trước tới nay chưa hề làm qua những việc như thế. Tôi mua cho quần áo gì thì mặc quần áo đó. Tôi nấu món gì thì ăn món đó. Chúng ta thấy trong một số gia đình hiện nay có duy nhất một đứa con, thế là nuôi đứa con này như là nuôi một tiểu hoàng đế, hay là một tiểu công chúa không khác. Cả một nhà đều vây quanh một đứa trẻ, hễ đứa trẻ muốn ăn gì thì người lớn dù bận chuyện gì cũng đều lấy cái quyết định của đứa trẻ để mà làm quyết định của cả nhà. Tôi cảm thấy đây là một sự việc rất đáng tiếc. Người Trung Quốc tuổi thơ ấu là tiếc phước, quí trọng hạnh phúc, quý trọng phước báu; thanh niên và trung niên đều phải tu phước, phải tạo phước; đến khi về già mới là hưởng phước. Cho nên chúng ta không nên cho con trẻ quá nhiều sự hưởng thụ, phải khiến cho cuộc sống của chúng trải qua được một cách bình thường là được rồi. Con trẻ có thể chịu khó trong cuộc sống, thì trong học tập mới có thể chịu khó, trong sự nghiệp mới có nghị lực mà đạt được thành tựu.
Tôi cũng từ việc không dùng bất kỳ hình thức vật chất nào để khích lệ con mình học tập đạt điểm cao, nhưng tôi có một một phương pháp để khuyến khích. Tôi rất là chú ý trong lớp của con học sinh nào ưu tú, chỉ cần bạn học nào trong lớp của Mao Sâm ưu tú nhất thì chúng tôi liền mời bạn đó đến nhà chúng tôi làm khách. Tôi chuẩn bị nào là trái cây, thức ăn, cơm trưa để mà tiếp đãi bạn đó. Đồng thời cũng mời luôn những người bạn thân cùng đến, mở một buổi tọa đàm học tập, cung cung kính kính mời những bạn học của Mao Sâm giới thiệu về học tập của mình. Nếu bạn nào giỏi tiếng Anh thì tôi mời bạn đó giới thiệu về việc học tiếng Anh, nếu bạn nào giỏi môn Ngữ văn thì mời bạn đó giới thiệu về việc học Ngữ văn, học toán giỏi thì mời giới thiệu về việc học tập môn toán. Vì bạn học này sau khi đến nhà thì nhận được sự cung kính, Mao Sâm nhìn thấy được nên cũng rất chú ý lắng nghe những kinh nghiệm của mọi người. Sau đó thì cũng rất là cố gắng, liền âm thầm mà gắng sức. Không bao lâu thành tích học tập đã vượt qua được người bạn học này. Phương pháp này rất là khéo, có thể khích lệ cái tinh thần tự cường tự lập của trẻ. Cho nên tôi cảm thấy các vị phụ huynh chúng ta không thể dùng tiền bạc vật chất để mà khích lệ việc học của trẻ. Người Trung Quốc có nói: “Trọng thưởng tất sẽ có người hùng”, câu này không thể dùng trong gia đình được. Chúng ta mà dùng tiền bạc và vật chất để kích thích việc học cho con trẻ, như vậy thì đã khiến cho trẻ nhận lấy cái ô nhiễm của tiền bạc. Điều này xin các vị phụ huynh chúng ta nhất định phải chú ý. Đệ Tử Quy nói: “Thấy người tốt, nên sửa mình; Dù còn xa, cũng dần kịp”. Cho nên chúng ta không thể dùng vật chất kích thích hay dùng việc trọng thưởng để kích thích con cái học tập. Đệ Tử Quy còn nói: “Chỉ đức học, chỉ tài nghệ; không bằng người, phải tự gắng”. Cho nên chúng ta làm mẹ phải giỏi về việc dẫn dắt con cái làm sao học tập ở những người bạn học ưu tú để tự cường tự lập.
Hơn nữa giáo dục gia đình cũng phải chú ý việc bồi dưỡng cho con cái năng lực độc lập hoàn thành công việc.
Tôi còn nhớ năm Mao Sâm tốt nghiệp trung học, khi đó đang chờ dán bảng danh sách kết quả thi trung học. Đúng ngay lúc đó tôi nhận được một thông báo dự hội nghị đi đến Hàng Châu tham gia cuộc họp nghiên cứu thảo luận về nghệ thuật quản lý và quan hệ công cộng cao cấp. Khi đó đơn vị của tôi, công việc của tôi rất là bận rộn, không thể đi, mà công việc của đơn vị cũng không thể nào để người khác đi được. Tôi nghĩ cái tờ thông báo dự hội nghị này thật không thể lãng phí, tôi muốn bảo con trai tôi đi, bảo con trai tự mình lo liệu chi phí đi luyện tập một chuyến xem sao. Cho nên tôi nói với Mao Sâm: “Con không phải là thường nói với mẹ rằng nên cho cơ hội để con rèn luyện sao? Cơ hội lần này đến rồi. Bây giờ có một cuộc hội nghị con phải đi tham gia, hội nghị này ở Hàng Châu. Con phải chuẩn bị tốt hành trang, chuẩn bị một quyển sổ ghi chép, thay cho mẹ đi dự cuộc hội nghị này”. Mao Sâm nghe xong liền ngây người ra, vì phải đi tham dự hội nghị cao cấp như vậy. Tôi nói tiếp, lần hội nghị này đều là giáo sư, học giả của các nơi, còn có một số chuyên gia về mặt quản lý và quan hệ công cộng. Tôi nói: “Sau khi con đi về, vì con thay mẹ đi mà, con phải ghi chép cho tốt, ngoài ra con phải khiêm tốn mà thỉnh giáo các vị giáo sư và chuyên gia. Sau khi con trở về lại Quảng Châu thì truyền đạt lại ý nghĩa chủ yếu của hội nghị cho mẹ. Đến lúc đó mẹ sẽ mời tất cả bạn bè thân thích tụ họp lại để lắng nghe báo cáo của con”. Mao Sâm cảm thấy được cái trách nhiệm này, cũng thấy là một vinh dự. Cậu ấy tự mình làm tốt công tác chuẩn bị, đi đến trạm xe lửa mua vé, chuẩn bị hành lý. Tôi dặn dò rằng: “Con đến Hàng Châu phải nhớ xuống tàu, vì tàu lửa này đi qua Hàng Châu vào ban đêm. Nếu như con mà quên xuống thì xem như đã bỏ qua cơ hội dự cuộc họp này”. Sau đó thì thả tay để cho Mao Sâm lên đường đi rèn luyện. Sau bảy-tám ngày thì Mao Sâm đã bình an trở về nhà. Cậu ấy đã thích thú mà kể lại một mạch việc ở Hàng Châu và Thượng Hải, tình hình làm việc của hội nghị. Chủ nhật tôi mời hết bạn bè thân của mình đến, mời luôn các bạn thân trạc tuổi với Mao Sâm đến, phụ huynh của các bạn đó cũng đều đến để nghe báo cáo của Mao Sâm về tinh thần của cuộc hội nghị quản lý và quan hệ công cộng cao cấp toàn quốc. Khi đó Mao Sâm mở quyển sổ ghi chép ra. Quyển sổ ghi chép này cũng được ghi chép rất rõ ràng tường tận, làm được rất tốt. Ngoài ra Mao Sâm còn báo cáo từng điều từng điều một rất thứ tự mạch lạc. Tôi ngồi bên cạnh nghe rất là thích thú, mọi người nghe đều rất là thích thú. Tôi ở bên cạnh tỉ mỉ mà quan sát, tôi cảm thấy khí chất của con trai mình tương lai có thể dạy trong trường đại học, có thể làm một giáo sư, tôi cảm thấy cần phải bồi dưỡng huấn luyện con mình thành một giáo sư. Đây không những là công việc của tôi mà còn là công việc rất quan trọng nữa. Việc nuôi dạy con cái của người mẹ là một sự nghiệp quan trọng hơn cả!
Mao Sâm đã dựa vào cái thành tích học tập ưu tú của mình để thi vào Trường đại học Trung Sơn chuyên ngành Mậu dịch Tài chính Quốc Tế. Lúc đó chính là tâm nguyện thứ nhất của Mao Sâm. Chuyên ngành này khi đó thi vào đại học là chuyên ngành có điểm số xét tuyển cao nhất. Sau khi thi xong đại học thì được 18 tuổi. Mao Sâm đã viết cho tôi một tấm thiệp, còn đề là “Thiệp Cảm Ơn”. Sau đây xin được chia sẻ với mọi người:
“Mẹ kính yêu!
Nhớ lại những việc đã qua, mẹ đã bao năm nuôi dạy mới khiến con có thể được học ở Trường đại học Trung Sơn – nơi học tốt nhất ở Lĩnh Nam này, khiến cho con được đào tạo ngành học tốt nhất ở ngôi trường này. Với lòng biết ơn, con muốn dùng một câu thơ để biểu đạt cái lòng biết ơn này:
Lời nào tâm tấc cỏ,
Báo đáp nắng ba xuân”.
Phía sau tấm thiệp còn kèm theo một bài thơ ngắn. Bài thơ này là do một nhà thơ hiện đại Trung Quốc viết, rất là có ý nghĩa. Bài thơ này có tựa đề là “Tình yêu của mẹ”
Tình Yêu Của Mẹ
Chúng ta cũng yêu mẹ,
Nhưng không bằng mẹ yêu chúng ta.
Tình yêu của chúng ta là con suối nhỏ,
Tình yêu của mẹ là đại dương bao la.
Hạnh phúc của chúng ta,
Là nét tươi vui trên gương mặt mẹ.
Đau khổ của chúng ta,
Là nỗi đau buồn sâu thẳm trong đôi mắt mẹ.
Chúng ta có thể đi rất xa rất xa,
Nhưng cũng không vượt ra tâm hồn bao la rộng lớn của mẹ…
Về văn hóa đời sống của giáo dục gia đình chúng tôi thường tổ chức hội họp về học tập giáo dục gia đình, còn tổ chức các chuyến du lịch song song với những hoạt động như là có hiếu với cha mẹ và làm vui cha mẹ. Những đứa trẻ này đều rất khát vọng được trèo núi cao vượt sông rộng, xem cho thỏa cái non sơn gấm vóc của tổ quốc, mở rộng tầm nhìn và tấm lòng mình để bồi dưỡng cái tình cảm của chủ nghĩa yêu nước. Tôi rất muốn đưa con đi tham dự những lần du lịch như vậy. Nếu như tôi quá bận rộn thì tôi gửi Mao Sâm cho bạn thân của tôi hoặc là người nhà của bạn tôi để cùng đi tham dự hoạt động này. Có một lần Mao Sâm đi du lịch cùng với cả nhà của người cậu, lúc đó Mao Sâm mới 13 tuổi. Tôi cảm thấy một đứa trẻ 13 tuổi nếu sau khi xa cha mẹ thì sẽ càng hiểu chuyện hơn. Mao Sâm cùng với cả nhà của cậu đi đến Tứ Xuyên chơi một chuyến. Trong chuyến đi đã viết cho chúng tôi một bức thư. Bức thư này hiện còn lưu giữ trong tủ đựng kỹ vật văn hóa của gia tộc chúng tôi. Bây giờ chúng tôi lấy ra để chia sẻ với mọi người một chút, xem cậu con trai 13 tuổi này sau khi xa gia đình thì cảm nhận cuộc sống như thế nào?
“Ba mẹ kính yêu!
Chào ba mẹ! Đã năm ngày không được gặp ba mẹ rồi, ba mẹ có khỏe không? Hiện giờ con và mọi người đều đã đến My Sơn một cách an toàn rồi, xXin ba mẹ cứ yên tâm!
Chúng con ngồi tàu nhanh từ Quảng Châu đi Tây An, đi tham quan một số danh lam thắng cảnh như là Lầu Chuông, Đại Nhạn Tháp, khiến cho chúng con được mở rộng tầm mắt. Chúng con ở một đêm trong lữ xá tại Tây An. Hôm sau thì ngồi tàu nhanh thẳng đến Thành Đô, chịu đựng hết một đêm trên xe lửa. Sau khi đến Thành Đô, chúng con đã ăn những món nổi tiếng của Thành Đô như là Vịt quay họ Trương, Bánh trôi nước họ Lai, chúng con cũng nếm cả những món thịnh soạn khác nữa. Đến 8 giờ tối thì chúng con đã tới My Sơn. Nghĩ lại, từ Quảng Châu chúng con tới My Sơn, lúc trên xe lửa mỗi lúc một gian khổ hơn. Từ Quảng Châu đi Tây An là ghế giường nằm, từ Tây An đi Thành Đô là ghế ngồi, từ Thành Đô mà đi My Sơn thì đứng.
Chúng con đến My Sơn thì chuẩn bị đi đến những thắng cảnh du lịch để chơi như là Công viên Tam Tô, Lạc Sơn Đại Phật, Núi Nga Mi,… Nói tóm lại là chúng con đi chơi nhất định là sẽ rất vui.
Chúc ba mẹ công việc thuận lợi, sức khỏe dồi dào!
Con trai của ba mẹ, Mao Sâm
Ngày 25-07-1986”.
Từ bức thư này chúng ta có thể thấy được vài vấn đề. Thứ nhất là thấy được đứa trẻ 13 tuổi này sau khi xa cha mẹ thì rất là lưu luyến cha mẹ, rất là nhớ cha mẹ, cho nên chủ động viết thư cho chúng tôi. Cái tình cảm thân thương đối với cha mẹ này là vượt ra ngoài giấy bút. Thứ hai là chúng ta có thể thấy, đứa trẻ khi gặp phải khó khăn trong chuyến đi, bắt đầu là giường nằm sau đó là ghế ngồi, sau nữa là đứng, tuy hoàn cảnh trong chuyến đi trở nên gian khổ nhưng mà vẫn cứ vui vẻ tiếp nhận. Đây chính là cái tinh thần mà chúng ta cần phải dạy cho con cái, chính là mãi mãi lạc quan mà đương đầu với cuộc sống.Điều thứ ba, chúng ta có thể thấy là đứa trẻ này khi đi du lịch cùng với một gia đình khác mà có thể chung sống hòa thuận với các anh chị em họ, cũng chính là tôn trọng người cậu và người mợ. Cho nên mới nghe người cậu phản ánh rằng, Mao Sâm trên đường đi đều rất là nghe lời mà tính tự lập cũng rất cao, tự lo cho bản thân rất tốt, bên cạnh đó trong suốt chuyến đi bất luận là gặp phải tình huống như thế nào thì Mao Sâm cũng vui vẻ thích thú, chí khí mạnh mẽ. Cho nên đối với việc dạy dỗ con cái, tôi có một kinh nghiệm, đó là có khi chúng ta phải để cho con cái rời xa cha mẹ, để chúng rời xa cha mẹ mà tập luyện một chút, chúng sẽ trưởng thành nhanh hơn, mà cũng càng trở nên quí trọng tình thương yêu của cha mẹ hơn.
Hiện nay chúng ta đa số đều là gia đình một con. Giáo dục con cái không chỉ là sự việc mẹ với con, con với mẹ, đơn giản như vậy. Chúng ta cần phải mở rộng ra với ông bà nữa, phải làm cái việc hiếu thảo với ông bà cha mẹ và làm vui ông bà cha mẹ. Con trẻ trong những công việc hiếu thảo và hài lòng cha mẹ luôn luôn nâng cao phẩm chất đạo đức của mình rất nhanh. Mao Sâm có ông nội bà nội, còn có ông ngoại bà ngoại, cả thảy bốn người ông bà. Trong những người lớn tuổi đều có tố chất của văn hóa truyền thống Trung Quốc, nhất cử nhất động của người lớn, một câu nói dặn dò của người lớn cũng có tác dụng giáo dục và nhắc nhở đối với con trẻ, cho nên những người cha mẹ trẻ chúng ta nhất định cần phải quan sát những cái ưu điểm của người lớn nhiều hơn nữa, tán thán ưu điểm của những người lớn này, như vậy mỗi lần con trẻ và ông bà tiếp xúc với nhau thì nó sẽ tập trung sức chú ý của mình vào những ưu điểm đó. Những đứa trẻ thường tiếp xúc với ông bà thì tính cách đều rất là tốt, đều rất là rộng rãi, rất ôn hòa, sẽ không lập dị lẻ loi mà đều rất là có tình cảm và yêu mến cuộc sống.
Chúng tôi đưa Mao Sâm về quê thăm ông bà nội. Chúng tôi tán thán ông bà cụ. Ông bà tuy không biết văn hóa là gì, nhưng chúng tôi tán thán ông bà cụ, tán thán ông bà cần cù, tiết kiệm. Chúng tôi học ông bà phương pháp làm đồng án, học kinh nghiệm sống của ông bà. Về thành phố chúng tôi đi thăm ông ngoại bà ngoại. Ông bà ngoại đều là người trong ngành giáo dục, thế là chúng tôi tán thán cái trình độ văn hóa của ông bà. Chúng tôi học tập ông bà về lịch sử, về văn hóa, về giáo dục. Cho nên ở người lớn có những cái chúng ta học mãi cũng không hết. Mỗi lần chúng tôi đưa con đi gặp ông bà đều là một lần giáo dục đời sống. Mỗi lần gặp ông bà thì phải cho con ăn mặc quần áo chỉnh tề, phải mua một ít quà. Con trẻ cũng nhìn thấy là phải mua quà cho ông bà. Hơn nữa còn phải ghi nhớ ngày sinh của ông bà, đặc biệt là phải chuẩn bị tiết mục để đi gặp ông bà. con nói gì khi gặp ông bà, con sẽ đọc bài thơ gì. Cho nên trẻ rất là khẩn trương, rất là vui khi làm những công việc chuẩn bị này. Khi cha tôi được 80 tuổi thì Mao Sâm đã viết một bài thơ tên là “Lão Nhân Tụng” để dâng lên cho ông mình. Bây giờ cũng xin được chia sẻ cùng mọi người:
Bài thơ bày tỏ tấm lòng với người ông 80 tuổi:
Lão Nhân Tụng
Ông kính yêu của chúng con,
Đã trải qua tám mươi mùa xuân,
Ông trải qua cuộc sống bao gian nan,
Chấp nhận bao phong ba dồn dập,
Gian khổ đã tẩy trắng mái tóc ông,
Sương gió đã khắc lên trán ông những vết tích.
Vậy mà, ông lại không ngừng lại với những thành tích đã qua, trái lại luôn vì con cháu đem đến cho những món ăn ngon, vẫn cứ đội cơn mưa như trút nước, đến nhà của đứa cháu sắp thi vào trung học, để mà tiến hành quyết sách và tham mưu, tuy đã già, phải chống gậy đi, nhưng chưa hề chùn bước, ông chẳng cần chúng con ở bên hầu hạ, trái lại luôn thôi thúc chúng con tự làm mới mình, kính thích chúng con phấn đấu tiến lên.
Ông ơi! Ông là một bộ văn hiến quý giá,
Thân thể tuy có già yếu,
Như nét chữ mờ nhạt,
Nhưng những hàm ý sâu bên trong,
Thật không có cách phai mờ.
Ông ơi! Ông là ngọn đèn biển chỉ rõ phương hướng cho hậu sinh, hướng dẫn chúng con tránh đá ngầm, dũng cảm tiến lên!
Ông ơi! Ông là sợi dây gắn bó các thành viên trong gia đình, duy trì sự hữu ái, hài hòa trong tình thân.
Chúng con sẽ tôn kính và yêu quý ông, không chỉ là tình cảm mà còn là cảm niệm với cái vất vả cực nhọc cả một đời, là lòng yêu thương, là thể hiện của tình cảm đạo nghĩa.
Nhà tiên tri Mosey của Ki Tô giáo từng nói:
“Ai khiến ông bà rơi nước mắt,
Ta sẽ làm mặt đất rung chuyển!”
Hôm nay, chúng con sẽ đem thành tích tốt nhất của mình dâng lên cho ông được vui, để ông luôn mở miệng tươi cười, khỏe mạnh sống lâu!
Cháu ngoại Mao Sâm, Kính thư!
Âm lịch 15-06-1990”.
Chúng ta phải nên khiến cho ông bà thường nở nụ cười. Mao Sâm cũng đã từng làm như vậy. Tuy ông bà ngoại đã không còn nhưng ông bà nội thì vẫn còn. Sau khi Mao Sâm được đi làm thì đã mua một căn nhà ở thành phố Quảng Châu cho ông bà nội ở, đón ông bà nội từ dưới quê lên để hai ông bà được an dưỡng tuổi già. Hai ông bà rất là vui thích, mỗi lần nhìn thấy Mao Sâm thì thật là cười thật là tươi, vui vẻ tự đáy lòng. Cho nên chúng ta mãi mãi phải cảm ơn ông bà, mãi mãi phải tôn kính và phụng dưỡng ông bà.
Khi mẹ tôi 82 tuổi thì Mao Sâm cũng đã viết một lời chúc mừng rất sinh động. Hôm nay do điều kiện thời gian nên chúng tôi xin được chia sẻ vào lần tới. Xin cảm ơn mọi người!
CHỦ ĐỀ THẾ GIỚI HÀI HÒA THUẦN TỊNH THUẦN THIỆN
BÁO CÁO 30 NĂM GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
MẸ HIỀN CON HIẾU (tập 2)
Cô giáo: Triệu Lương Ngọc
Giáo sư: Chung Mao Sâm
Ngày 30 tháng 06 năm 2007
Giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hiền