Thứ Ba, 13 tháng 9, 2016

HÀNH TRÌNH TẦM CHÂN PHÁP

LỜI TỰA
Là những người thông thái và thành đạt, sau cuộc “ Hành trình về phương Đông” , các khoa học gia danh tiếng mang tâm trạng hăm hở và quyết tâm cao độ đi tầm Chân pháp tận vùng rừng núi xa xôi, hoang vu và đầy huyền thoại về những vị Chân sư nắm giữ Chân pháp bí truyền ...
Thông qua những mẫu đối thoại thú vị giữa các khoa học gia và các vị Đạo sư, người tu học có dịp nhận diện chính mình, quán xét con đường tu học và thu thập nhiều điều lợi ích thiết thực trong đời, trong đạo.
Chân pháp mầu nhiệm vẫn còn ở đích đến phía trước nhưng người tu học đã có thể biết phải làm gì, sống ra sao, tu như thế nào ... Để cuộc đời có ý nghĩa và mang lại lợi ích cho chúng sanh. Đó là những điều được gởi gắm trong Hành Trình Tầm Chân Pháp.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và chân thành tri ân những ý kiến đóng góp cho Hành Trình Tầm Chân Pháp.
Tác giả
Cư sĩ Hồng Thiện Pháp
hongthienphap@gmail.com


1.CÁI KHỞI ĐẦU ĐẦY KHÓ KHĂN THỬ THÁCH
Sau chuyến du hành về phương Đông tìm hiểu và nguyên cứu về tâm linh, mọi người trong phái đoàn thật sự tính tâm với Phật pháp, họ quyết trở lại núi Tuyết Sơn mong gặp Chân sư, tầm cho được chân pháp cao cả nhiệm mầu.
Bốn nhà khoa học bỏ lại sau lưng mọi thứ giàu sang danh vọng mà họ đã có, quét sạch những lời gièm pha của mọi người, lặng lẽ trực chỉ chân núi Tuyết Sơn. Họ chia làm 2 nhóm, một đi về hướng đông, một đi về hướng tây và cùng hẹn, cứ mỗi ba năm sẽ gặp lại nhau dưới chân núi, nơi ngôi đền yên lặng vào ngày cuối cùng của năm thứ ba.
Nói về nhóm thứ nhất gồm Spal (Spalding) và Alen (Allen), hai người đi lần theo đường mòn cặp vách đá về hướng đông, không ai nói với ai lời nào, từng bước vượt qua những nhọc nhằn mà trong đời họ chưa từng nếm trải.
Ánh dương đã gần khuất núi, nhìn cảnh núi đá chập chùng không một bóng người giữa đất trời mênh mông, họ cảm nhận được thân phận con người thật quá bé nhỏ. Spal chợt có suy nghĩ: “Có hay không có ta trong vũ trụ bao la này dường như chẳng có gì thay đổi cả ư ? ”
Chuẩn bị dừng chân tìm chỗ ngủ qua đêm, bất chợt họ nhìn qua hốc đá, bên kia là một thung lũng xanh tươi. Điều vui mừng nhất là thấy bóng một người đang lom khom trồng tỉa trên mảnh đất nhỏ cạnh một động đá. Chưa bao giờ hai nhà khoa học có cảm giác sung sướng và hạnh phúc như  vậy, họ cảm nhận trời đất bao la như vô tình nhưng cũng có những điều bất chợt thấy kỳ thú.
Điều vui thích hơn là người họ gặp nói tiếng Anh thật lưu loát. Ông tên Chuân, gốc người Trung Hoa, trạc 50 tuổi, ông cho biết đã ở đây tu tập hơn 20 năm rồi. Ông cũng thông báo cho biết con đường mòn lên núi tới đây coi như đã hết, vì vách núi thẳng đứng chắn lối, muốn lên núi là việc khó như lên trời vậy. Điều này làm hai nhà khoa học như chợt bị rơi xuống giếng sâu. Họ có tâm tư và nguyện ước xả thân cầu đạo, họ đã tự chọn lối đi này, chẳng lẽ không thể lên núi để gặp Chân sư học đạo được sao?
Ông Chuân như đón biết tâm tư hai nhà khoa học, ôn tồn nói:
- Hai ông đừng vội lo buồn như vậy, vị Chân sư báo cho tôi đón tiếp hai vị ở đây, sau ba tháng nếu hai vị có đủ duyên lành, Chân sư sẽ thu nhận chỉ dạy.
Spal có đọc nhiều kinh điển phương đông nên hiểu đây là ba tháng thử thách người tầm đạo, nếu không qua được xem như chưa đủ duyên lành, không được Chân sư truyền dạy cho Chân pháp nhiệm mầu.
Alen là người trực tính, có nhiều điều chưa hiểu biết nên nôn nóng hỏi thẳng ông Chuân:
- Xin ông thứ lỗi, nhiều điều về đạo hạnh chúng tôi không rõ biết, có sai trái xin ông hướng dẫn cho. Ai tu học cũng có cái nghĩ suy “Muốn tu rốt ráo đạt đạo, việc như vậy là khó hay dễ ?”
Ông Chuân chỉ tay lên bầu trời hỏi lại:
- Mây bay trên trời như vậy là khó hay dễ ?
Và chỉ lạch nước đang chảy hỏi thêm:
- Nước tuôn chảy như vậy là dễ hay khó ?
Cuối cùng hỏi thẳng Alen :
- Riêng ông, ông đang hít thở như vậy là dễ hay khó?
Alen thật chẳng rõ nghĩa lý gì trong các câu hỏi thấy thật giản đơn như vậy. Ông là người trực tính nên trả lời ngay:
- Tất cả mọi việc như vậy thật quá dễ dàng, không có gì khó cả. Tuy nhiên, chắc phải có đạo lý gì thâm sâu trong đó nên ông mới hỏi như vậy, xin ông vui lòng chỉ dạy cho!
Ông Chuân cười nói:
- Tôi muốn lấy các việc tự nhiên như vậy để cân đo cái nghĩa của chữ khó hay dễ mà ông đã đề cập tới mà thôi! Nay thì tôi có thể nói cho ông rõ, chuyện tu rốt ráo để đạt đạo còn dễ hơn cả chuyện ông hít vô thở ra nữa!
Spal là người trầm tĩnh, nhưng trước câu nói tu rốt ráo đạt đạo còn dễ hơn thở, nghĩa lý này là lần đầu được nghe, xưa nay kinh sách thường đề cập đến như việc thật khó khăn, còn ví khó hơn cả việc muốn lên trời, không nén lòng được, Spal xen lời :
- Chúng tôi là những người xưa nay thực tiễn, không hiểu nghĩa lý gì cao sâu ở bên trong, xin ông Chuân vui lòng giải thích rành rẽ cho!
Ông Chuân mỉm cười nói:
- Các ông lặng lẽ nghe tự khắc sẽ biết vì sao tôi nói tu rốt ráo đạt đạo còn dễ hơn việc thở nữa. Các ông hẵn đã có lần nghe qua việc Phật Thích Ca dạy về mười điều thiện, gọi là Thập Thiện. Muốn được mười điều thiện đó thì phải rời bỏ mười điều xấu ác sau.
- Ý: Không tham lam - Không sân hận - Không si mê.
- Thân: Không sát sanh - Không trộm cắp - Không tà dâm.
- Miệng: Không nói dối - Không nói ác - Không nói đâm thọc - Không uống rượu.
Ông Chuân mỉm cười nói:
- Nay chỉ lấy việc: không trộm cắp, không uống rượu ra để cho các ông dễ nhận biết … Nếu ai xúi các ông đi trộm cắp thì các ông phải nhọc công nghĩ suy cho ra phương cách trộm cắp sao cho không bị bắt, không bị tù tội. Hoặc ai kêu các ông đi uống rượu thì các ông cũng phải suy nghĩ, cần có bao nhiêu tiền để trả, uống rượu gì, nếu say rượu quá thì phải làm sao? Để cha mẹ, vợ con rầy rà, buồn phiền hoài thật cũng không ổn.
Ông Chuân nói tiếp:
- Đi ăn trộm hay uống rượu còn là việc khó. Nay chẳng buồn nghĩ chuyện uống rượu hay ăn trộm, không phải làm việc gì cả thì sao nói là khó được. Các điều xấu ác khác cũng cùng một lý như vậy. Rời xa, không nhớ nghĩ, không lưu tâm chuyện xấu ác. Rõ ràng đơn giản như vậy! Quá dễ cho ai muốn thăng tiến tu sửa thân tâm. Các điều xấu ác không làm thì tội lỗi làm sao có được, tự khắc thân tâm an ổn, thiện căn tròn đủ, chẳng phải dễ hơn cả chuyện hít vô thở ra hay sao?
Alen bàng hoàng với điều như vậy, ông chưa từng nghĩ tới, tuy nhiên ông hỏi tiếp:
- Nhưng lý do gì mà người đời ai cũng cho là khó khi nói xa rời các việc xấu ác như vậy?
Ông Chuân chậm rãi nói :
- Ông nhận xét vậy quả là đúng như người thế tục, chỉ vì họ chẳng có ý nguyện tu sửa, chẳng có quyết tâm tu học, cho nên trong ngày có va vấp bao nhiêu điều xấu ác họ cũng chẳng lưu tâm, như thế làm sao rời bỏ xấu ác được. Quả là khó cho ai không có ý nguyện, không có quyết tâm tu sửa.
Ông Chuân nói tiếp:
- Ý nguyện cùng thệ nguyện là điều kiện tiên quyết cho người đời và người học đạo. Người đời sống không ý nguyện, không có mục đích ví như người ra biển khơi không biết phương hướng. Người ra khơi không biết phương hướng thì chỉ chết có một đời. Người vào đời, sống không có mục đích, không có ý nguyện, không có phương hướng thì phải trầm luân vô lượng kiếp. Chính vì vậy mà tôi nói ý nguyện cùng thệ nguyện là điều kiện tiên quyết, nếu không có quyết tâm thì trồng cỏ cũng không xong nói chi đến chuyện học đạo.
Spal suy nghĩ: “Ông là nhà khoa học đã thành tựu nhiều việc lớn trong xã hội, cũng chưa nhận định được một việc thấy đơn giản nhưng lại là một quyết định chung cuộc như vậy”.
Ông Chuân nói tiếp:
- Nay thì các ông tõ biết, ý nguyện cũng như lời thệ nguyện là một quyết tâm kiên cố cho chính mình chứ chẳng phải là thệ nguyện cho trời đất nào nghe cả. Học đạo mà không quyết tâm, không có ý nguyện thì không thành tựu được.
Ông Alen hỏi có chút dè dặt:
- Tôi thường nghe nhiều câu chuyện phương đông nói về lời thề hay thệ nguyện như là một điều gì linh thiêng, nếu làm không đúng lời thệ nguyện sẽ bị lực vô hình huyền bí trù dập thật là khốn khổ, chính vì thế mọi người rất e dè khi nói tới thệ nguyện hay lời thề. Nay nếu quyết tâm tu học và phát lời thệ nguyện, liệu có bị lực vô hình đeo bám để ban thưởng hay trừng phạt như vậy không?
Ông Chuân nghiêm trang hỏi lại Alen:
- Ông nghĩ sao về lời hứa của ông với bạn bè, cha mẹ hoặc ông bà trong cuộc sống thường ngày. Khi hứa hẹn điều gì rồi chẳng lưu tâm, chẳng làm hay làm không được thì ông có bị lực vô hình gì khen thưởng hay trừng phạt không? Nếu ông nghĩ rằng có ma quỷ hay thần linh trù dập thì thật không phải, mà lực vô hình phát ra ngay khi ông vừa nói, các ông phải cẩn trọng xét suy thì sẽ rõ biết.
- Hứa hẹn với con trẻ rồi làm không xong cũng còn thấy hổ thẹn. Nay hứa hẹn với ông bà, cha mẹ hay bè bạn trong đời, làm không xong hoặc lơ là như chẳng có nói, nghĩ suy một chút ông sẽ thấy cái lực vô hình đè nặng còn hơn cả chuyện trù dập của quỷ ma hay thần linh nữa. Quỷ ma hay thần linh thì chỉ trừng phạt một thời, một lúc, còn lực vô hình này sẽ ám ảnh ông suốt cả cuộc đời. Trong đời, người không tôn trọng lời nói hay lời hứa sẽ bị mọi người khinh khi, xem thường, ví như kẻ bỏ đi, thần thức ông ghi khắc, thần thức mọi người cũng ghi khắc như vậy. Đời này không an, đời sau cũng không an ổn được cho người có lời nói xằng dại, không thật tâm ý. Khẩu nghiệp quả là đáng ghê sợ!
- Khi còn là Bồ Tát, Phật đã từng nói: “Thà chết chứ không nói lời không phải, không hứa hẹn dối trá”. Chết thì dứt bỏ có một đời, người dối trá, lời chẳng thật, nghiệp xấu ác sẽ liên tục theo nhau chất chồng, chết ngộp trong thống khổ không lối thoát.
Ông Alen ấm ức câu nói “Tu rốt ráo còn dễ hơn là thở nữa”, nay biết thêm về khẩu nghiệp quả báo, cấp thời thật không thể nghĩ suy cho cùng được.
Ông Chuân như hiểu ý cười nói :
- Nào có chuyện gì cao xa huyền hoặc, dần dần rồi các ông cũng lần ra được mọi việc. Các ông dẹp bỏ hết những ý mù mờ, huyền bí, lặng lẽ nghe là tự khắc sẽ biết. Trước tiên, các ông phải hiểu rõ thế nào là tu rốt ráo đạt đạo!

2.THẾ NÀO LÀ TU RỐT RÁO ĐẠT ĐẠO?
Ông Chuân chậm rãi nói:
- Tôi tóm lược rõ ràng con đường tu hành xưa nay để các ông dễ nhận biết:
Một là tu tại thế, xưa nay các tôn giáo chỉ dạy giúp cho con người thăng tiến tốt lành tại thế tục, vươn lên tới các tầng trời tốt đẹp nhưng không vượt thoát ra khỏi sự luân hồi sanh tử.
Từ khi có Phật Thích Ca mới có phương pháp chỉ dạy cho chúng sanh tu hành để vượt qua khỏi vòng thế tục, không còn bị luân hồi trở lại nên còn gọi là tu xuất thế hay tu rốt ráo đạt đạo.
- Phương pháp tu rốt ráo đạt đạo Phật chỉ dạy rõ ràng: “Muốn tu rốt ráo đạt đạo thì phải ly rời mọi thứ thế tục, cái gì thuộc thế tục đều gọi là Vọng, phải đoạn dứt.”
- Nghe như vậy, các ông nghĩ người tu rốt ráo chẳng còn biết gì ở thế tục, chẳng còn biết cha mẹ, bà con thân quen gì cả. Không phải ý Phật dạy như vậy! Đó chỉ là lúc Phật dạy các đệ tử đang tập trung tọa thiền ở giai đoạn rốt ráo diệt Sắc, Thọ, Thưởng, Hành, Thức, để tất cả Vọng tâm lặng dứt thì Chân tâm mới thể lộ ra được. Nào phải nói quay lưng rời bỏ hết mẹ cha và thế tục. Đừng vì lầm hiểu mà lo sợ khi nghe tới hai chữ tu hành. Rõ nét nhất là Phật và các đệ tử của Phật đã đắc Alahán, đã vào đến chỗ không còn sanh tử luân hồi nữa, xong giai đoạn tu đó rồi thì trở lại cuộc sống bình thường như mọi người.
- Ví như một người học trò khép mình ngày đêm lo đèn sách, phải rời xa mọi cuộc vui cho tới khi thi đậu rồi cũng trở lại cuộc sống bình thường như bao người. Người giảng nói hay sao chéo kinh điển giải thích không rõ ràng, làm mọi người hiểu mù mờ nên sanh ra lo sợ con đường tu học.
- Phật Thích Ca ngày xưa có nhiều khó nhọc vì là người đi tầm kiếm con đường giải thoát, nay kho tàng đã có cùng bản đồ chỉ cho đi đến nơi thì nói khó, nói khổ là chuyện không phải vậy. Cái khó lớn nhất ở chỗ người tu phải có đủ đức hạnh, đủ duyên tốt lành mới nhận được bản đồ vào lấy kho báu. Người tâm chưa thật tốt nhận được kho báu, chẳng làm chuyện tốt lành, ngược lại, làm chuyện sai trái là cả một thảm họa cho chúng sanh.
- Tu rốt ráo đạt đạo ví như người làm thuyền bè để qua sông, sang sông rồi thì mang chi thuyền bè trên vai mà nói khổ, thung dung thỏng tay vào chợ đời là ý như vậy! Có Thiền sư diễn nói tu chỉ là ngồi chờ đợi thôi ! Đợi mọi Vọng tâm diệt, Chân tánh, Chân Tâm hiển lộ, tự khắc sáng biết tròn đầy. Quả thật là như vậy, nên tôi mới nói còn dễ hơn cả việc hít thở. Tôi cũng biết các ông đang muốn biết cái Chân tâm, Chân tánh ra sao, không thể thấy biết thì làm sao tín tâm, tin nghe cho được.
- Phật dạy rõ ràng, thực tiễn như các ông làm chuyện khoa học vậy, không dạy mù mờ, huyền hoặc. Các ông hãy nghe lời Phật giảng về Chân tánh, tự khắc các ông tin hiểu.
- Phật lấy lửa làm ví dụ để giảng giải cho dễ hiểu. Khi lửa chưa thành hình ngọn lửa thì người ta không thể biết hình dạng lửa ra sao, ở nơi nào, lửa được dụ như Chân tánh, Chân tâm vậy. Khi có các duyên hòa hợp đủ đầy, có củi, có dầu, có bùi nhùi, có mặt trời, có sức nóng thì lửa phát ra. Ngọn lửa mà ta thấy được có muôn vạn hình thái khác nhau, như ngọn lửa của đèn dầu, đèn sáp, ngọn lửa của than củi, ngọn lửa của rừng cây bị cháy v.v… Muôn vật trong thiên hà vũ trụ, trong đó có con người cũng cùng một lý như vậy, đủ duyên hòa hợp sanh ra muôn vạn hình thù khác nhau, giống như ngọn lửa vậy. Nay ta cắt hết các duyên lành ra ngọn lửa thì ngọn lửa tắt, lửa quay về cái Chân tánh của nó, không hình sắc nhưng nơi nào, chỗ nào cũng có thể lấy, lửa trở lại được.
- Phật dạy, con người cắt hết các duyên Sắc, Thọ, Thưởng, Hành, Thức tạo ra Vọng tâm nơi thân là quay về Chân tâm, Chân tánh, mọi thứ trong vũ trụ cùng một lý như thế, không sai khác. Phương cách Phật dạy tu rốt ráo đạt đạo rõ ràng, thực tiễn như vậy, không có chuyện mù mờ, huyền hoặc gì trong đó. Tọa thiền không khởi động tâm ý, lần tới cảm thọ cũng không, không để thân tâm làm việc gì cả. Không làm gì cả thì sao gọi là khó nhọc cho được, chẳng là quá dễ hay sao?
Spal và Alen lần đầu tiên nghe tóm lược việc tu rốt ráo mà đã ngàn năm chưa có người thành tựu được, sao lại quá dễ dàng như vậy?
Ông Chuân như hiểu được ý, nói tiếp:
- Chuyện thì dễ như vậy, cũng giống như các ông khởi động một chiếc xe hơi hay một chiếc máy bay, nhưng nếu không có người chỉ dạy cho phương cách thì ngàn đời cũng không làm được. Cái khó lại nằm ở chỗ đó!
Spal hiểu cái mấu chốt “Không có Chân sư thì không có phương cách thực hành, không thể đạt đạo được!” nên lên tiếng :
- Như vậy Chân sư là mấu chốt quyết định việc tu rốt ráo đạt đạo có phải không?
Ông Chuân gật đầu nói:
- Ông nói như vậy có chỗ đúng, cũng có chỗ chưa đúng! Ví như thời Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử có Phật là Chân sư ở cạnh bên, nhưng có phải ai cũng tu rốt ráo đạt đạo được đâu ! Mấu chốt còn nằm nơi chúng sanh muốn tu học nữa, dù đã có quyết tâm nhưng căn cơ nghiệp quả còn nặng nề, chưa dứt sạch, các duyên lành chưa tròn đủ thì Chân sư cũng chưa thể truyền trao cho Chân pháp cùng tận.
Ông Chuân cẩn trọng nói tiếp:
- Chân sư cận kề, phương pháp thực hành đã truyền trao, nhưng chúng sanh qua nhiều đời kiếp, nghiệp quả đeo bám cũng hằng sa nên khó vượt qua, vì biết như thế, Phật đã truyền dạy cho Chú Thủ Lăng Nghiêm. Phật cẩn trọng nhắc nhiều lần: “Con người khó vượt qua được nghiệp quả nên phải luôn trì Chú Thủ Lăng Nghiêm, thập phương chư Phật cũng nhờ Chú này mà thành tựu được đạo quả”.
Ông Chuân giải thích tiếp:
- Chú này có 427 câu chữ không tạo hình, không gợi ý gì cả nên rất khó nhớ, khó thuộc, nay trì cho thuộc, phải kiên trì lần thuộc từng câu. Để cho nhớ thuộc, tâm trí phải tự khai mở thêm ra những công năng, chính vì thế, người trì chú dần dần trở nên sáng biết với nhiều khả năng khác thường mà xưa nay người đó chưa từng có. Trì chú không có nghĩa là đem chú ra đọc hay còn gọi là tụng, nghĩ rằng đọc nhiều lần, tính số lần đọc để lập công đức là ý nghĩ thiễn cận, không đúng pháp.
Ông Chuân trầm buồn nói tiếp:
- Trì chú cũng như những pháp khác mà Phật chỉ dạy, đều có mấu chốt hay phương cách thực hành, chẳng phải xướng đọc lên nghe cho hay hay, vui vui như vậy. Pháp tu nào Phật dạy cũng có duyên sanh, dạy cho ai, dạy cho tầng bậc nào, chẳng phải kinh sách nào cũng phải đọc, phải học. Đó là chuyện mù mờ mà cả thế gian này đang lần vào.
Spal suy tư một chút rồi hỏi:
- Ông nói như vậy phương cách dạy tu rốt ráo đạt đạo cũng có nhiều tầng bậc sao? Tôi đọc trong kinh sách có nói “Không môn” - cửa vào đất Phật chỉ có một, đã không hai thì sao có thế này, thế nọ được?
Ông Chuân giải thích:
- Ông nói đúng ở chỗ, tu rốt ráo thì chỉ có một con đường để vào cổng “Không môn”. Tuy nhiên, trên con đường đó có nhiều đoạn, mà mỗi đoạn phải áp dụng phương cách cho phù hợp thì mới vượt qua đoạn đó để tiến lên đoạn khác.
Ông Chuân chỉ cái thang tre mà nói :
- Cũng tương tự như ông leo lên một chiếc thang tre, phải vượt qua từng bậc thang thì mới lên tới đầu thang được. Nói cho dễ hiểu thì tu rốt ráo cũng nhiều tầng bậc như vậy, như tọa thiền lần lượt qua bốn tầng bậc thiền. Trước tiên dùng phương cách làm cho tâm không động loạn, dứt ý, dứt niệm, hơi thở cạn mỏng cũng dứt hẳn, hoát nhiên lọt vào một trạng thái như thân xác đã ngủ mà thức biết vẫn còn. Như thế là đã vào được chỗ nhập lưu, vào lãnh địa không còn ý sanh diệt, được quả vị Tu đà huờn. Đây chính là cửa “Không môn”, phải khế hợp, không ý, không niệm, không thở thì mới vượt qua được lãnh địa không còn âm thanh, sắc tướng này, mới mong gặp được Như Lai.
Ông Chuân chậm rãi nói tiếp:
- Trước thì trụ ý, ý đã diệt, bước sang phương sách trụ mạch, cảm thọ mạch ở thân cũng cạn mỏng dần và dứt hẵn, bước qua vị quả Tu đà hàm. Tuần tự thứ lớp diệt Sắc, Thọ, Thưởng, Hành, Thức là chung cuộc. Chỉ có một đường như thế, nhưng phải qua những tầng bậc như vậy, không ai có thể đốt giai đoạn làm khác hơn được.
Alen đột nhiên hỏi:
- Con người xưa nay không thở thì xem như đã chết, mạch cũng dừng, rõ ràng đã ngưng hoạt động. Thật là điều lạ lùng, đáng sợ! Thực tế sao có những chuyện trái ngược như vậy?
Trước câu nói thẳng thốt trực tính của Alen, Spal lo sợ ông Chuân có ý phiền trách, ông Chuân lại tươi cười nói:
- Con người trên thế gian này đều có ý nghĩ lo sợ y như ông vậy, nếu không lo sợ mới là chuyện lạ. Nếu các ông có xem truyện Tôn Ngộ Không, người ta diễn tả chuyện này qua đoạn thầy trò Tam Tạng phải vượt sông Ái Hà.
- Sông lớn không thấy bờ biển, nước sông cuồn cuộn chực chờ cuốn trôi mọi thứ rơi vào, thầy trò Tam Tạng muốn qua sông nhưng trước mặt chỉ có chiếc thuyền không đáy. Thuyền không đáy dụ cho chỗ dứt thở, dứt mạch, bước xuống là xong đời, nên ai chưa từng biết đều lo sợ. Thấy Tam Tạng, Bát Giới và Sa Tăng đều lo sợ như vậy nên thối lui, chỉ riêng Tôn Ngộ Không ( ngộ được cái Không rồi ) biết rõ đó là mấu chốt để vượt thoát vòng sanh tử nên đẩy nhẹ thầy trò Tam tạng rơi vào chỗ thuyền không đáy. Thầy trò Tam Tạng đã không chết mà còn bay được trên không, thấy thoát được xác phàm của mình đang trôi bềnh bồng trên dòng sông Ái Hà, đó là dụ chỗ Bản lai diện mục.
- Ngoài đời, thực tế quán sát các loài vật ngủ đông kéo dài đến sáu tháng, bảy tháng, cơ thân cũng ở trong tình trạng vắng lặng tim mạch như thế.
- Người vào được chỗ dứt ý, dứt niệm, dứt thở, bước vào cửa nhập lưu, đạt quả vị Tu đà huờn. Còn có tên là Bất thoái quả. Người đó biết mình dứt thở đã không chết mà còn cảm nhận được ở trong một trạng thái vô cùng vui khỏe như đang đứng giữa gió xuân. Chính vì vậy mà tín tâm, không còn thoái chuyển nữa, tinh tấn lần vào các tầng bậc kế tiếp cho tới khi đạt đạo.
- Người tu trong giai đoạn sơ cơ này, muốn vào thiền để chết luôn cũng không thể được. Như Phật Thích Ca, Alahán La Hầu La cùng các vị Alahán khác muốn tự tịch diệt cũng phải tọa thiền, vào ra thứ lớp các tầng bậc thiền mấy lượt, quán xét vuông tròn mọi việc rồi mới tịch diệt, nào phải sơ cơ mà chết được như thế đâu! Biết rõ như vậy để có cơ duyên mà thẳng tiến, không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một như vậy.
Spal đã đọc biết nhiều kinh sách Phật pháp, cho nên các điều ông Chuân nói càng làm ông rõ biết hơn, tín tâm hơn. Tuy nhiên, còn một điều mà Spal suy tư và lo lắng nhất, ông chân thành hỏi thẳng ông Chuân:
- Nay tôi chỉ còn vướng bận một điều, xin ông thật lòng nói rõ cho! Với quyết tâm cầu Chân pháp của tôi và các bạn tôi, liệu có đủ duyên để được Chân sư tiếp nhận hay không?
Ông Chuân nhìn Spal và Alen với ánh mắt đầy từ ái, Spal tinh đời nên nhận biết trong ánh mắt đó còn chất chứa một điều gì chưa ổn, khiến ông càng lo lắng Spal khẩn thiết nói:
- Chúng tôi là những nhà khoa học lỗi lạc, trong xã hội được mọi người kính trọng, sang giàu, quyền thế gì chúng tôi cũng vứt bỏ hết chỉ mong cầu cho được Chân pháp, nhưng tôi vẫn cảm nhận được chúng tôi còn thiếu một điều gì để Chân sư có thể tiếp nhận, xin ông vui lòng giúp chỉ dạy cho.
Ông Chuân nhìn xa xôi như muốn nói một điều gì rồi lại như dè dặt nói ra một điều gì. Điều này khiến Alen là người rất tự tin cũng phải lo lắng hiện ra trên nét mặt, Spal không dám nói hay nghĩ suy gì, chăm chú nhìn ông Chuân, chờ đợi câu nói của ông.
Ông Chuân quay sang Spal đưa bàn tay gầy xương nói:
- Ông hãy cầm tay tôi xem nóng, lạnh ra sao?
Spal đưa hai tay run run nắm lấy bàn tay gầy gò, chai khô và giá lạnh của ông Chuân, không thốt được lời nào, một cảm nhận nặng nề đè nặng trong tâm hồn ông.
Ông Chuân chậm rãi, buồn buồn nói:
- Các ông có khi nào thực tiễn chú tâm cảm nhận bằng tâm mình vào một người khác không?
Các ông hời hợt với mọi thứ xung quoanh, cái gì có liên quan tới cá nhân các ông thì cố công làm cho được. Tôi không có ý trách hay chê bai điều gì, chỉ nói lên thực chất mà chính các ông và mọi người phạm phải mà thôi.
Ông Chuân nói tiếp:
- Các ông nói xả bỏ tất cả, quyết tâm tầm Chân pháp là điều thật lòng, tôi biết như vậy! Nhưng nay tôi có câu hỏi ngắn cho hai ông: “Các ông có bao giờ tự hỏi, mình sống trên đời này để làm gì? Nói ngắn gọn hơn là sống để làm gì? Nay quyết tâm tầm cầu cho được Chân pháp, đạt đạo để làm chi? ”
Tôi hỏi như vậy nhưng chẳng phải đợi câu trả lời của các ông mà muốn các ông tự quán xét tâm mình một cách chân thật xem nó nghĩ gì, muốn gì, nghĩ muốn như vậy có thật chính đáng không?
Ông Chuân nói rồi chậm rãi rời thạch thất đi về phía cuối hang động. Hang đá giá lạnh chìm dần trong bóng tối nhưng thực chất Spal và Alen thấy trong lòng còn giá lạnh hơn. Câu hỏi của ông Chuân còn vang vọng đâu đây:
“Sống để làm gì ?
Tầm cầu Chân pháp đạt đạo để làm chi?”

3.SỐNG ĐỂ LÀM GÌ? TẦM CẦU CHÂN PHÁP, ĐẠT ĐẠO ĐỂ LÀM CHI?
Từ hôm đó Spal và Alen không ai nói với ai điều gì, mỗi người đi mỗi nơi, lặng lẽ như người đi ngoạn cảnh mây trời đồi núi nhưng thực ra trong tâm trí chỉ còn tồn đọng hai câu hỏi “Sống để làm gì? Tầm cầu Chân pháp, đạt đạo để làm chi? ”
Nghe qua hai câu hỏi tưởng chừng như giản đơn. Nếu hý luận cùng nhau thì có vô số ý tưởng như trong sách vở, con người xưa nay đã đề cập, nhưng để lọt qua cửa của Chân sư thì chẳng phải hời hợt, chẳng phải chuyện nói tới bàn lui được. Không chân thật thông tỏ, không tự xuất phát từ tâm mình mà dụng ý tưởng ở nơi nào khác là việc chẳng thể được.
Hai nhà khoa học không có cách nào khác hơn là lần từ các ý tưởng mà từ nhỏ đến giờ họ đã biết “Sống vì tổ quốc - Sống vì gia đình - Sống vì Chân lý - Sống vì phải sống - Sống vì mình - Sống vì nòi giống - Sống vì hưởng thụ mọi thứ - Sống để giúp đời - Sống để thương yêu - Sống để làm cái gì đây? ”
Nghĩ gì cũng không ổn cả, có một lần ngồi đối diện với tâm mình mới thật rõ biết về mình.
Spal nhớ lại lời ông Chuân nói khi bảo cầm tay ông xem lạnh nóng ra sao “Các ông có khi nào thực tiễn chú tâm cảm nhận bằng tâm mình vào một người khác không? Các ông hời hợt với mọi thứ xung quanh, cái gì liên quan đến cá nhân các ông thì cố công làm cho bằng được. Tôi không có ý trách hay chê bai điều gì, chỉ nói lên thực chất mà chính các ông và mọi người phạm phải mà thôi.”
Ông Chuân muốn chỉ dạy điều gì? Hay chỉ nói lên cái thực tại của chúng sanh, chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, nói riêng ông hay nói chung cái thực tế lo sợ khốn khó, lo sợ sanh tử luân hồi, lo sợ cho mình như vậy mà tầm cầu Chân pháp hay chỉ nhằm thỏa mãn ý muốn tìm tòi cho biết cái mà ai cũng mơ ước, là được sống vĩnh cửu an lành, mơ ước cái thiên đàng như kinh sách đề cập.
Spal càng nghĩ suy càng thấy thực tế trong tâm mình không có một định hướng nào khả dĩ nói là cao đẹp, quả tình đi tầm cầu Chân pháp là cái cao tột của đạo mà tâm mình tệ hại như thế. Sống còn chưa thật biết sống để làm gì, tệ hại như vậy sao có hy vọng được Chân sư thu nhận!
Hai nhà khoa học lừng danh cố vận dụng mọi sự hiểu biết của mình đã qua hơn một tháng rồi. Ông Chuân hàng ngày giúp lo cho hai bữa cơm rau muối để nơi thạch thất của Spal và Alen, còn các việc khác thì hai người phải tự lo liệu. Hai nhà khoa học chí tình muốn tìm cầu học đạo, nên mọi thứ vật chất kể cả ăn uống ngủ nghỉ cũng không buồn lưu tâm, nhất là hai câu hỏi quả tình thúc ép không cho tâm ngưng nghỉ, suy tư trăn trở mọi thứ trong đời để tìm cho ra lời giải đáp. Tìm không ra, đồng nghĩa với việc phải xuống núi, còn mong gì gặp Chân sư.
Thời gian nặng nề trôi qua, chỉ còn 3 ngày nữa là hết thời hạn 3 tháng thử thách. Hai nhà khoa học ngồi lại với nhau, Spal nói với Alen:
- Ông đã tìm ra được câu trả lời nào chưa ? Tôi thì trong lòng chẳng có một câu trả lời nào khả dĩ nói cho ông nghe chứ đừng nói là trả lời Chân sư. Sao chép, cóp nhặt những điều như sống vì tổ quốc, vì dân tộc, vì xã hội, vì thế giới cộng đồng, vì gia tộc v.v… Tôi thấy đều không có thật trong tâm tôi. Một đời tưởng mình thông minh, tài trí, nay mới thật rõ mình còn quá tệ hại.
Alen còn thiểu não hơn nói:
- Tôi thấy người học đạo hiểu biết và có những khả năng vượt qua khoa học, có thần thông diệu dụng thật đáng khâm phục, trong tâm các vị đó toàn những điều cao thượng, thật đáng kính trọng. Nay thật tâm quán xét mới rõ biết, muốn cầu Chân pháp cho đạt cái cao tột, đó chỉ là cái tâm mê ham thôi thúc. Nói tu vì nhân loại, vì chúng sanh thì quả tình tâm tôi trống rỗng, không có tâm hồn cao cả như vậy, nên tự biết mình chẳng đáng được truyền Chân pháp chút nào cả! Vì mưu cầu Chân sư chỉ dạy mà cố cóp nhặt tâm cao thượng ở đâu về cho mình, điều không thật như vậy càng đáng hổ thẹn, tôi chấp nhận xuống núi nhưng không phải vì vậy mà tâm tôi thoái chuyển.
Alen và Spal nhất trí ngày mai từ biệt ông Chuân xuống núi, không chờ gặp Chân sư nữa.
Thật sự sống để làm gì cũng không biết! Tầm cầu Chân pháp cao thượng mà tâm chẳng thật sự cao thượng, từ ái, bao dung cũng không thật có, nghĩ suy đã xấu hổ đâu thể van cầu ! Tâm thật tầm thường như vậy cầu sao cho được Chân pháp !
Sáng hôm sau, Spal và Alen khăn gói ra từ biệt ông Chuân. Spal từ tốn kể tất cả mọi diễn biến thật sự trong tâm ý của ông và Alen. Spal nói :
- Chúng tôi xét suy thật cẩn trọng, ra đi quyết tâm tầm cầu đạo thì đã đủ đầy, nhưng từ ái xót thương mọi người thì thật quá kém cỏi, xưa nay chỉ hạn hẹp cho mình và gia đình hay một nhóm người thân quen, tự biết chưa đủ duyên để Chân sư chỉ dạy Chân pháp tốt ráo đạt đạo.
Ông Chuân ôn tồn nói:
- Hai ông không hổ danh là những người có trí sáng biết và biết nhận định sáng suốt với tâm ý chân thật, không dối giả. Tôi thật mến mộ cái chân thật như vậy, Chân sư có gởi tới mấy lời nhắn nhủ trước khi hai ông xuống núi:
“Người đi tầm đạo chân chính là người đi tầm chân lý cao cả của đạo chứ chẳng phải mong cầu rốt ráo cho được quả vị cao tột, người có tâm ham mê vị quả như vậy dễ sanh ra tà tư, vì vậy Chân sư dù có cạnh bên, Chân pháp cũng chẳng thể truyền dạy. ”
“CÁI ĐẠO LÝ CAO CẢ TỘT CÙNG THÁNH THIỆN KHÔNG NẰM Ở NƠI QUẢ VỊ CAO HAY THẤP, CŨNG CHẲNG PHẢI CHỖ XUẤT THẾ HAY NHẬP THẾ. RÕ THẬT LÀ CHỖ ĐẠI TỪ, ĐẠI BI, THƯƠNG XÓT CỨU GIÚP, ĐỘ TẬN CHO CHÚNG SANH ĐANG KHỐN KHÓ. ”
Ông Chuân chậm rãi nói tiếp :
- Hai ông quán xét mà biết, chư Phật, chư Bồ tát, chư Thánh xuất hiện trên đời dạy đạo cùng đích là giải thoát cái khốn khó cho chúng sanh, chẳng phải dạy cho thành Thánh, thành Bồ tát hay thành Phật để thung dung, tự tại giải thoát cho riêng mình. Việc như thế một người sáng biết không đáng nhọc công làm !
- Muốn tu thành Phật, thành Bồ tát phải trải qua hàng vô số kiếp cứu giúp chúng sanh, tu học và hành trì tất cả các pháp lành thế tục, đức hạnh viên dung rồi mới thành tựu được. Nay lại nghĩ suy tu cho mau thành Phật, thành Bồ tát rồi trở lại độ chúng sanh là cái suy nghĩ cạn cợt, không thật, không có điều trái ngược vậy.
Spal chắp tay đa tạ :
- Nay tôi đã thông mấu chốt của việc tu học, không thể ham mê, nóng vội mà được. Chân thật tâm phải tròn đủ, phải xa rời mọi điều xấu ác để tội lỗi không phát sanh. Có như thế thì thân mới an, tâm mới an, an ổn rồi mới mong đi cứu giúp, làm các việc lành, chỉ dạy, cứu độ cho chúng sanh. Tôi nguyện sẽ làm được như thế !
Alen thật sự thâm nhập được đạo lý nên tự nguyện: “Tôi cũng hiểu ra như vậy nên nguyện tu tập đến khi nào Chân sư chưa thu nhận, tôi quyết không rời chân núi này.”
Spal và Alen lần xuống núi, mỗi người một suy tư không ai nói với ai điều gì.

4.QUYẾT TÂM TRUY TẦM ĐẠO LÝ - TỪNG MẤU CHỐT HIỂN LỘ
Thật sự Spal và Alen còn bao nhiêu điều về tâm linh, về đạo học muốn biết. Bao nhiêu điều đã được biết cũng không rõ hư thực ra sao, có chuyện gì không thật trong đó không? Học về khoa học kỹ thuật còn kiểm nghiệm được, học đạo thì làm sao để kiểm nghiệm đây?
Spal và Alen đã đi qua bao nước Á, Âu, Trung đông, thu nhận biết bao hình ảnh chùa chiền nguy nga tráng lệ, lễ nghi cúng bái thật trang trọng cũng không làm các nhà khoa học tín tâm.
Hình ảnh những vị sư tăng lặng lẽ từng bước một, du hành khất thực khiến họ xúc động trước sự tu hành kham khổ, nhưng cũng không phải cái thực chất họ muốn tìm hiểu. Với tinh thần khoa học, họ không hời hợt dễ chấp nhận những cái hào nhoáng do các tôn giáo phô bày ra, họ muốn tìm ra cái thật chất thâm sâu thật có, chẳng phải chỉ thấy, nghe mà tin được.
Hình ảnh những vị ẩn tu trong núi rừng làm họ cảm phục trước sự can đảm, quyết tâm tu học như vậy, nhưng phương pháp tu hành thì không thuyết phục được họ. Đôi lần họ được chứng kiến những phép thuật lạ lùng, họ không thể nào dùng khoa học giải thích được, nhưng nếu thực chất chỉ có như vậy, họ nghĩ cũng không hơn một quả bom nguyên tử hay một phi thuyền lên không gian, chỉ học để làm được các phép thuật như vậy mà phải mất một đời thì quả thật không đáng.
Đến xế chiều, họ cũng xuống tới chân núi, tìm một nơi cao ráo để tạm ngủ qua đêm. Đêm trăng tròn sáng, ngủ gần Spal và Alen có một nhà sư và một thanh niên trẻ. Spal có ý qua làm quen xin trò chuyện với nhà sư, hy vọng lần ra một vài điều gì hay ho, Alen cũng có cùng suy nghĩ như vậy, cả hai bước qua chào hỏi.
Trò chuyện, Spal và Alen được biết Sư là người Việt Nam, pháp danh là Thiện Tôn, nói Tiếng Anh và tiếng Pháp rất giỏi, khi hỏi về lai lịch Sư, Sư cười bảo:
- Các ông hỏi về việc đạo thì được, nói việc đời loanh quang chẳng lợi ích gì tôi không trả lời đâu. Các ông muốn đi học đạo thì cái gì không biết cứ hỏi, tại sao không hỏi chuyện đạo mà tìm hỏi chi lai lịch trong đời. Nếu các ông tin tưởng những người có chức vị cao trong đạo giáo hay có tiếng tăm tạo dựng nhiều chùa chiền, kinh sách hay tông môn thì chỉ cần tra cứu trong sách báo, các ông không phải khó khăn, nhọc mệt là có thể tìm được. Nhìn căn cơ các ông thấy tội nghiệp mà có vài ý mấu chốt chỉ vẽ cho các ông dễ khai mở đạo tâm.
Spal và Alen là những người luôn được trọng vọng, lời lẽ thẳng thừng như thế ít khi gặp phải, vì vậy có chút khó chịu.
Spal cố gắng nhẹ giọng hỏi:
- Sư nói nhìn biết căn cơ chúng tôi, như vậy Sư đã có thần thông rồi ư?
Sư cười nói:
- Các ông trong đầu lúc nào cũng nghĩ tới chuyện lung linh huyền hoặc, có thần thông biết được như vậy là hay lắm sao? Tôi chẳng dụng tới thần thông mà biết được thì các ông có thấy hay hơn không?
Spal và Alen một lần nữa bị ngỡ ngàng, chưa biết đáp lời sao cho phải thì Sư lên tiếng:
- Chỉ nhìn từ đâu tới chân các ông thì đã rõ biết, người không có học thức, không có địa vị, không thông minh thì không thể có một tướng trạng như các ông được. Từ cái đồng hồ, cây bút, áo quần các ông đã nói lên gần hết thân thế các ông rồi, nay các ông gặp Sư nói chuyện, lại nói lên ý của các ông muốn nói gì, hỏi gì trong khung cảnh dưới chân núi lạnh lẻo này? Ngoài chuyện muốn tìm hiểu về đạo thì không có việc gì khác, có đúng như vậy không?
Một lần nữa Spal và Alen không thốt lên lời, Sư nói tiếp:
- Chính vì các ông chưa nói lên lời nào nên tôi có phương cách khéo chỉ cho hai ông để con đường tu học tiến nhanh mà không phải lận đận, nhọc mệt. Thứ nhất, trên đường học đạo thì phải lấy chân thật làm đầu. Lòng không chân thật thì ý nghĩ, lời nói, cách hành xử đều sẽ bị lệch lạc, sai trái cả. Người như vậy, tự xét suy còn thấy chán ghét chính mình thì ai muốn cận kề giúp cho mình, suốt một đời sẽ chẳng bao giờ thân an, tâm an được. Đời còn không an làm sao nói học đạo cho được. Mình biết nói biết, không nói không, ý không dối giả thì lời nói ra sao có giả dối cho được. Mấu chốt là tại chỗ đó !
Spal và Alen tự nhiên thấy mình nhỏ bé, chỉ biết thu nhận lời Sư nói, dù lời Sư nói chẳng có gì cao xa nhưng rõ ràng, dễ hiểu, đậm nét chắc thật như một chân lý.
Sư chậm rãi nói tiếp:
- Lòng đã chân thật thì ý nghĩ và hành động thể hiện ra ngoài cũng thật. Các việc nói trên còn là việc dễ, duy chỉ khi mở miệng nói thì sẽ phát sanh cái khó nơi đó. Vì sao như vậy? Vì lời nói, ngôn ngữ đôi khi dùng không đủ nghĩa, người nghe có thể hiểu sai ý ngôn từ người nói. Chính vì vậy, phải cẩn trọng trong lời nói, gặp việc khó giải bày, khó nói, khó hiểu thì người khéo nói không nói lời nào cả!
Spal và Alen nghe tới đây trong lòng tự khắc trống vắng mọi ý so đo, lọt vào một trạng thái an tĩnh, thu nhận lời nói của Sư như một chân lý xác thực.
Sư chậm rãi nói tiếp:
- Vì lòng đã chân thật cho nên mọi ý so đo không còn, chính vì vậy mà tất cả mọi thứ trước mắt thật là thu nhận biết thật, cái giả dối thì thấy biết giả dối, chẳng có vướng bận gì trong lòng người chân thật cả. Đã hiểu và nhất tâm chọn cái chân thật rồi thì tự khắc bao nhiêu thứ xấu ác không xâm nhập được, nên còn nói quyết một lòng chân thật rồi quỷ ma cũng né tránh là ý như vậy. Các ông thấy tôi chẳng dụng phép thuật gì cả, mọi thứ đều khoa học, thực tiễn. Ai làm được vậy sẽ được an lành, tốt đẹp, thánh thiện như vậy.
Spal nghe lời Sư nói thì thật giản đơn, nhưng biết rõ ràng là chắc thật như vậy. Sư tiếp lời:
- Người đời cũng biết sống chân thật sẽ được tốt đẹp như vậy, nhưng không làm được chỉ vì trong lòng họ không có một quyết tâm, không có một định hướng nào rõ cả. Quyết tâm với mình cũng như một lời thệ nguyện, một lời hứa với ông bà, cha mẹ hay với trời đất vậy. Người không có quyết tâm, không có định hướng nên bị dòng đời lôi cuốn, ham danh lợi, mê tình tiền, phát sanh sân giận, oán thù nối tiếp chất chồng, phiền lụy khổ đau bám theo, có như vậy mà đời sống không an, đời còn không an, đạo làm sao đến cho được.
Spal và Alen nghe những lời như vậy, không có chỗ tranh cãi luận bàn gì thêm, chẳng cần kiểm nghiệm gì cả, trong lòng họ cũng thật biết là các sự việc diễn biến y như vậy ở trong đời. Chỉ qua vài câu nói giản đơn như vậy, thanh âm lời nói của Sư nhẹ êm như gió thoảng nhưng rõ ràng có một sức mạnh như lời của một vị giáo chủ ban truyền cho tín đồ một chân lý.
Spal và Alen biết là mình đã có duyên may gặp vị đạo sư minh triết, trong lòng không còn chút so đo, cân phân gì nữa, chỉ mong đạo sư giúp giải đáp cho các chuyện còn vướng bận trong lòng mà thôi.
Đạo sư như đã hiểu ý của Spal và Alen, lên tiếng khuyến khích:
- Các ông đừng ngại gì cả, chân thật tâm mà hỏi về đạo, đó là cách học biết nhanh nhất. Còn việc các ông sẽ dụng ý như thế nào là chuyện riêng của các ông, không ai xen vào đó được. Không trịch thượng cũng không quá từ tốn, trong lòng không so đo đúng sai, lặng lẽ, tỉnh giác thu nhận lời nói là cách tốt nhất giúp các ông có kiến thức, còn chuyện hay dở, giả thật ra sao tự khắc thần thức các ông phán quyết. Người có tinh thần học hỏi như vậy không bị chướng ngại gì trong tâm ý nên có cơ thành tựu được điều muốn tầm cầu.
Alen như mở cờ trong bụng, đang khốn khổ vì hai câu hỏi của ông Chuân, chưa lần ra được câu trả lời thỏa đáng nên luôn bức xúc, nay có dịp nhờ Sư giúp trả lời cũng là cân đo sự minh triết của Sư thâm sâu đến độ nào.
Alen thành khẩn nói:
- Hai anh em chúng tôi có hai điều chưa lần ra đáp án, nay kính nhờ Sư giúp chỉ dạy cho.
Một là cùng đích con người Sống để làm gì?
Hai là người đi học đạo, muốn rốt ráo đạt đạo để làm chi? Chân thành xin sư giúp cho.
Spal thật sự lo lắng trong lòng trước câu hỏi nóng vội của Alen. Lời đã nói ra quả tình khó thu lại được. Đang học hỏi được nhiều điều thật hay, thật hữu ích, nay Alen hỏi như vậy, nếu Sư không trả lời hoặc trả lời không hợp ý hai người thì có phải tự làm hỏng một cuộc trò chuyện, học hỏi đang diễn biến tốt đẹp hay sao?
Nhìn qua Spal, Sư như biết được những âu lo trong lòng Spal nên ôn tồn nói:
- Xin ông đừng đặt nặng vấn đề như thế, với người học đạo hay dạy đạo chân chính, không có một mưu cầu gì phía sau thì mọi diễn biến trong đời đều bình thường cả. Ví như cái không biết mà cố nói biết vì mưu cầu gì, đó là cái tự làm khó, làm khổ cho mình mà thôi.
Đạo sư ôn tồn nói:
- Khi Phật chỉ dạy đạo cũng có những câu hỏi Phật không trả lời. Vậy có phải là Phật tệ hại, dở quá hay sao ? Riêng câu hỏi của ông Alen đây lại là câu hỏi mà người thế gian cần phải tìm biết, riêng người dạy đạo không biết mấu chốt trong đó thì làm sao chỉ dạy cho được. Các ông đừng nôn nóng cũng đừng để tâm so đo gì cả, hãy lặng lẽ thu nhận, tôi sẽ nói cùng lý cho các ông rõ. Còn việc đúng sai, hay dở gì là việc các ông tự phán quyết.
Spal và Alen thật sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một việc mà hai người đã khổ công truy cứu cũng chưa lần ra, nay nghe Sư nói sao có vẻ dễ dàng như vậy.

5.NHỮNG MẤU CHỐT ĐỂ THÀNH TỰU
Đạo sư ôn tồn nói:
- Quyết tu thì phải kiên nhẫn quán xét học biết mọi việc trước sau, chẳng phải chỉ nghe tin mà được. Ví như nghe Phật dạy, chúng sanh thật lắm bệnh, tám muôn bốn ngàn tâm bệnh thì Phật sẽ có 84.000 phương cách đối trị. Người tham lam thì phải dạy phương pháp bố thí đối trị, thấy người hung dữ thì lấy pháp từ ái chỉ dạy v.v… Nay có người nói 84.000 pháp môn, tu pháp môn nào cũng đạt đạo. Các ông phải tự nghĩ suy, quán xét, ví như chỉ bố thí cho tới vô lượng kiếp thì có đạt đạo được không? Thời Phật còn tại thế có chỉ dạy tu như thế không?
- Có người nói tu pháp môn này mới là hay, là tối thượng, mới đạt đạo được. Người khác lại cho rằng theo tông môn kia mới là cao thượng, đáng tu, đáng theo học,mới đạt đạo được. Các ông phải tự quán xét, thời Phật dạy đạo có chia chẻ ra như vậy để dạy cho đệ tử không?
- Nay chia chẻ dòng Phật pháp, lập môn, lập phái như vậy là cái khởi đầu tranh giành, kiện tụng, xỉa xói nhau, cho rằng chỉ có tông môn mình là đúng, chỉ học biết những điều của tông môn mình, làm tàn lụi pháp Phật, làm chúng sanh không ai đạt đạo được. Thấy thì như lỗi nhỏ nhưng tội thì hằng sa, đã rẽ chia Phật pháp, làm tàn lụi pháp Phật. Thập phương tăng cũng không thể sám hối cho lành lại được dòng Phật pháp. Có nói biết hay không biết, lỗi đã sanh thì tội tránh được sao? Thực tế từng giai đoạn đều có ghi chép, cái thật thì nói thật như vậy, chẳng thể nói khác đi được.
Đạo sư nói tiếp với Spal và Alen:
- Các ông thấy đó, đứng trước một người hay một nhóm người có những lập luận sai trái, nếu dụng lời Phật dạy nhưng không hợp lúc, hợp nơi, hợp nghĩa lý, đúng đối tượng, kết quả ra sao thì các ông cũng đoán biết, đi ra về mà còn giữ được mấy cái răng ăn cơm là may mắn lắm rồi. Nào phải chuyện tôi có thể bày biện ra được, người xưa đi dạy đạo bị gãy răng, kinh sách ghi chép vẫn còn đó.
Đạo sư tiếp lời:
- Nói phớt qua như vậy để các ông thấy, muốn chỉ dạy đạo cho người ta thu nhận được, thành tựu được chẳng phải dụng một khuôn mẫu nào, một bài giảng cố định nào chung cho tất cả mọi người được, phải rõ biết căn cơ rồi mới chỉ dạy được.
- Vì thế để cân đo nghĩ suy của một người, căn cơ duyên nghiệp cùng tâm thức tiến hóa tới đâu, người ta dụng các câu hỏi như: “Ông suy nghĩ xem người ta sống để làm gì? ” Rõ biết căn cơ rồi, mới chỉ dạy thích hợp được ! Mấu chốt học đạo, dạy đạo, không rõ biết thì không thể thành tựu được việc học cũng như việc dạy.
Đạo sư nói tiếp:
- Nay tôi sẽ bày rõ ràng SỐNG ĐỂ LÀM GÌ ? Nó chẳng phải cao cũng chẳng phải thấp. Phải kiên nhẫn học biết, quán xét trước sau, chẳng phải chỉ nghe tin mà rõ thật được mấu chốt. Các ông hãy lắng nghe !

6.NGƯỜI NGỘ ĐƯỢC MẤU CHỐT SỐNG ĐỂ LÀM GÌ
Đạo sư giải thích cho Spal và Alen thật rành rõ:
- Khi một người tự nghĩ suy, quán xét để hiểu con người sống ở trên đời để làm gì, người đó phải xem xét thật nhiều khía cạnh của đời sống, thấy cái sai trái, thấy cái cần thiết, thấy cái cao thượng. Chưa hài lòng là còn truy tìm trong tâm ý, dù là người thường hay người tu đều phải bắt đầu bài thực hành quay vào tâm ý hay còn gọi là quán xét tâm, lặng lẽ truy tìm, dù chưa tìm được gì nhưng từ lúc đó một việc gì tới, người đó đã quen xét suy, cân nhắc lợi hại, không hời hợt như trước nữa, biết chọn cái an lành cho đời mình vì không ai khờ khạo tự chọn tù tội, khốn khổ.
Thấy Spal và Alen chưa thật thông tỏ, đạo sư kể câu chuyện “Người Giác Ngộ mấu chốt Sống để làm gì?”
- Có ông Bá hộ quen thân với tôi, ông đã lớn tuổi, muốn tìm một người có thể giải đáp được câu hỏi mà ông chưa có câu trả lời. Ai trả lời làm cho ông hài lòng, ông hứa trao cho một nửa gia sản của ông. Không luận người đó ở trong hay ngoài gia tộc, già hay trẻ, ngu mê hay sáng biết, xấu hay đẹp, hiền hay dữ, đang sống ngành nghề gì, ông cũng lần tới để hỏi chỉ cùng một câu: “Con người trên thế gian này Sống để làm gì? ”
Một đứa cháu mới 3, 4 tuổi đời ông cũng cho cơ hội trả lời. Bé không do dự đáp :
- Ông ơi, cháu sống để bú sữa, sữa ngon hơn cháo, sữa là ngon nhất !
Ông Bá hộ muốn thu nhận các câu trả lời từ những người ông thực tế chạm mặt, một đứa trẻ đi ngang qua, tuổi vừa cắp sách đến trường ông cũng hỏi “Sống để làm gì ? ”
Đứa bé nói: “Sống để đi học, mẹ con có nói con người không chịu học thì ngu dốt, ngu dốt thì không làm được gì, bị đói nghèo, phải đi moi rác để kiếm sống, nên con biết rõ sống là để đi học.”
Đứa khác thì nói: “Sống để đi làm kiếm tiền nuôi ông bà, cha mẹ mình đã già yếu.”
Đứa khác thì nói: “Sống để làm rạng danh cho gia tộc cũng là báo hiếu cho cha mẹ, ông bà.”
Đứa khác thì nói: “Sống phải anh dũng xả thân vì quê hương đất nước, để làm rạng danh cho nòi giống.”
Đứa khác thì nói: “Sống phải yêu thương, sanh con cháu để nối dõi tông đường.”
Ông Bá hộ ghi chép từng câu nói như vậy, ông đi lần từ trong gia đình, thân tộc ra đến chợ búa, hàng quán cho tới chốn quan trường. Có những câu nói nghe qua thật mạnh mẽ:
“ Sống phải có danh gì với núi sông.” hay “Sống phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”
Bao nhiêu câu nói ngoài trường đời ông đều ghi chép cẩn thận, chưa hài lòng ông bước vào nơi chùa chiền, trình bày tâm ý của mình và xin được hỏi các sư tăng đang tu học.
Một dòng tư tưởng mới ấn tượng hơn:
- Sống để tu sửa thân tâm, trở về nguồn cội của mình.
- Sống để trả hết nghiệp báo của mình mà giải thoát.
- Sống để tu sửa trong từng giây phú hiện tại, tinh tấn tới vô lượng kiếp.
- Sống để tầm cầu giải thoát luân hồi sanh tử.
- Sống vì mọi người, bởi người và ta là một, nên phải thương yêu tất cả chúng sanh.
- Sống để cứu giúp chúng sanh đang khốn khổ.
- Sống để tu học, đạt đạo quả là đền ơn Phật, Trời.
- Sống vì chúng sanh.
Hằng sa câu nói nghe qua thật ấn tượng, nhiều xúc động trước những ý tưởng cao thượng nhưng ông Bá hộ cũng không vừa ý, bởi lời tuy cao trọng nhưng thực tế tâm ý chẳng đồng.
Bao nhiêu tâm, bao nhiêu ý, tập sách ghi chép ý tưởng đã dầy cộm mà ông cũng chưa lần hiểu ra được ý nghĩa của một đời người là sống để làm gì ?
Buồn bực, ông đi lang thang dọc theo bờ sông nhìn dòng nước liên tục nhẹ trôi không ngưng không dứt. Ngồi nghỉ trên một ghềnh đá, ông để tập sách ghi chép cạnh bên, gió mát nhẹ thổi, ông thiu thiu ngủ. Chợt tỉnh lại, thấy một thằng bé tay cầm cuốn tập của ông lật mạnh qua từng trang, lo lắng ông la hoảng lên:
- Cháu ơi, nhẹ tay, nhẹ tay cho, kho báu của ta đó! Hãy trả lại đây, ta sẽ cho cháu những đồng tiền vàng.
Ông càng la thằng bé càng chạy xa hơn, nó xé từng trang giấy ném xuống dòng sông miệng luôn nói: “Kho báu chỗ nào sao chẳng thấy… ”
Ông Bá hộ vội chạy theo, vấp phải tảng đá té ngã, chỉ còn biết nhìn theo từng tờ giấy nối tiếp nhau bị dòng nước cuốn trôi… Thằng bé xé đến tờ cuối cùng, ném tất cả xuống sông và nói: “Chỉ là giấy với mực mà nói là kho báu. Kho báu của ông kìa kìa nhìn đi … rõ là khờ… ”
Nhìn những tờ giấy nối tiếp nhau trôi theo dòng nước, tột cùng thống khổ, quay lại thì thằng bé đã biến đâu mất rồi ! Hoát nhiên, ông khựng người lại … Một cái gì, một điều gì xâm nhập trong lòng ông, trong tâm ý ông … Nhẹ nhàng, thanh thoát … Ông Bá hộ đứng vụt dậy, bật cười sảng khoái la to lên: “Nó đây rồi! Nó đây rồi! ”
Tung người khập khểnh chạy về nhà như một đứa trẻ, vui thích không cùng mặc dù chân ông bị vấp đá, máu chảy bê bết.
Từ hôm đó ông như trẻ ra, cái gì trong nhà không cần nữa ông tìm người cho, ai có nhu cầu gì ông cũng giúp cho bằng được, cả gia tộc cả xóm làng chẳng hiểu vì sao như vậy. Duy có một điều mọi người xót xa cho ông, từ hôm đó chân ông bị thương tật đi khập khiễng, không lành lại được.
Những người bạn thân đến thăm đều có ý dọ hỏi:
- Vì lẽ gì mà ông thay đổi nhiều như vậy? Bị thương tật cũng không buồn ư ?
Ông cười bảo :
- Tôi đã tìm ra chân lý ! Nay đã rõ biết sống để làm gì ! Cám ơn cậu bé Thiên thần.
Alen ngồi nghe tới đây vội bật dậy nói:
- Hay quá, hay quá! Vậy là ông Bá hộ đã biết được sống để làm gì ! Ông đã nói cho các bạn ông nghe như thế nào? Sống để làm gì?
Sư Thiện Tôn chồm tới đống lửa lấy bình trà nóng rót thêm ra cho mọi người mỉm cười rồi nói tiếp:
- Ông Bá hộ luôn miệng cười, lắc đầu bảo : “Không nói ! Không nói ! Cái ta biết mà các ông lấy cóp lại chỉ là đồ bỏ thôi ! Không nói, không nói ! ”
Spal thì trầm ngâm lặng lẽ, Alen vui hớn hở hỏi đạo sư :
- Thân quen với ông Bá hộ, đạo sư có hỏi ông Bá hộ đã biết sống để làm gì không ?
Đạo sư uống một ngụm trà, cười nói:
- Thật tiếc, không thể hỏi được vì ông Bá hộ đó chính là tôi đây.
Alen sững sờ nhìn sư, chẳng nói gì thêm nữa, rền rĩ như chỉ nói với mình :
- Biết được thì nói được, vì sao không chịu nói nhỉ?
Đạo sư thông cảm cho Alen, kể tiếp một chuyện để quán xét, học hỏi thêm.
- Các đệ tử Phật Thích Ca có lần hỏi Phật: “Phật có lần nói về Hoàng thiên Hậu thổ, về các tầng trời, nay chúng con muốn biết thêm các việc như vậy sao Phật không giảng nói ?”
Phật trả lời: “Ta không giảng nói chỉ vì những chuyện như vậy không phải là chánh pháp, không mang lại sự diệt khổ cho chúng sanh, đôi khi còn mang lại sự hoang tưởng tai hại. Vì lợi ích chúng sanh mà ta không nói, chứ chẳng vì lý do gì cả. ”
Đọa sư ôn tồn nói:
- Đến tầng bậc căn cơ như các ông đây, đã xác định được chắc thật là sanh ra trong cõi đời này chẳng phải để vui chơi trác táng, để ăn nhậu, đàn ca hát xướng cũng chẳng phải để thâu tóm tiền bạc, xây dựng nhà cao cửa rộng, tạo lập danh tiếng lẫy lừng, bởi những điều đó cũng chẳng để làm gì. Các ông là những người đã lần từng bước qua những việc như vậy, nên đã biết mọi thứ chỉ như trò đùa của thế gian. Nhưng người đang bước vào thì say mê các trò như vậy, sống chết tranh nhau, giết nhau, cấu kết bè phái để hãm hại nhau không chút thương tiếc.
- Biết rõ cái mà người đời say mê lại là nguyên nhân gây ra bao nhiêu thứ khổ đau trên đời. Lúc bấy giờ các ông suy tư tới những bậc Thánh hiền : “Sao đời sống, ý tưởng của bậc Thánh hiền lại tốt đẹp, thanh cao như vậy, các vị đó học được gì, thật có những huyền năng gì mà thành tựu được như vậy? ”
Đạo sư nói tiếp :
- Không thỏa mãn cái hiện thực các ông đã đạt được nên đi tầm cầu cái cao hơn. Những bậc thang trí tuệ, tư duy tiến lần qua như vậy. Không có những lần bước trong tâm tư thì không thể có những nghĩ suy khác vượt lên được. Cho nên một câu nói để nghĩ suy, mà có muôn vạn lời khác biệt tương ưng với tâm ý phát ra. Với người sơ cơ thì đó là những bậc thang để tiến hóa. Người khéo dụng thì thấy được căn cơ từng người trên từng bậc thang như vậy, từ đó giúp thêm một mấu chốt nữa cho người tiến dần lên các bậc cao hơn.
Đạo sư cười nói tiếp :
- Người đời tưởng có cái gì cao siêu, huyền diệu trong những câu nói như vậy, dù có biết cũng chẳng dụng vào đâu được chớ nào phải chuyện gì cao xa mà che đậy.
Đạo sư giải thích thêm :
- Ví như các ông cho một học sinh Tiểu học hay Trung học một công thức đo đạc thiên hà vũ trụ hay phương pháp trung hòa hạt nhân nguyên tử, học sinh đó có trong tay những thứ như vậy cũng chỉ là đồ bỏ đi mà thôi.
Cái nôn nóng gặp Chân sư, cái ham muốn tầm cầu học các điều cao tột trong đạo gần như tắt ngấm trong lòng, Spal chân thành thổ lộ với đạo sư :
- Ngày xưa tôi nghĩ, tôi có ít nhiều sáng biết, có tiền tài, ở trong xã hội làm việc gì cũng thành đạt thì học đạo chắc cũng như vậy, sẽ dễ dàng học được các điều huyền diệu cao tột của đạo mà người bình thường khó lần tới được.
Spal chân thật nói tiếp:
- Tới đây tôi hiểu ra con đường học đạo của tôi thật sự là cái mới chập chững bước đầu, chẳng biết có thể trụ vững hay không nữa. Nghĩ suy lại với ý tầm cho được Chân sư, cầu cho được Chân pháp để tu rốt ráo đạt đạo quả là điều mơ tưởng. Người trí thức có tiền tài, địa vị trong xã hội nghĩ mình tìm tới thì sẽ được Chân sư săn đón giống như ở ngoài đời, muốn học gì cũng sẽ được tận tình chỉ dạy thì quả là ngu ngờ. Tôi thật sự hổ thẹn dù chí tình muốn tầm cầu học đạo.
Alen nghe Spal tâm sự như vậy cũng như mũi lao đâm thủng quả khinh khí cầu. Cái nóng vội, hùng khí, ảo tưởng xẹp xuống thảm hại.
Đạo sư ôn tồn khuyến khích :
- Hai ông hiểu được như vậy là đã ngộ được chỗ mấu chốt để học đạo, thấy được chỗ khởi đầu, quyết tâm thực hiện thì có lúc tới hồi kết thúc. Trăm vạn người tu thông thường là nóng vội, mê tín chẳng phải chỉ riêng hai ông. Thiếu duyên hiểu được mấu chốt lại rơi vào các nơi lợi dụng sự tín ngưỡng nên chỗ khởi đầu không rõ, chỗ tới cũng không tường, loanh quanh như vậy hết cả một đời.
Đạo sư nói:
- Hai ông chân thật, quyết tâm chọn con đường tu học, căn cơ đã có, nay đủ duyên tốt lành thì việc tiến tu nhanh chóng bằng trăm vạn lần người khác, buông tay là thấy đạo.
Spal và Alen nghe thấy lời sau cùng này như được sống lại, Alen run run hỏi:
- Đạo sư dụng thần thông gì có thể biết được như vậy, biết rõ cả căn cơ của anh em chúng tôi nữa.
Đạo sư cười từ tốn nói:
- Ông lại nghĩ tới chuyện huyền hoặc, tôi lòng thanh thản nhìn là thấy biết, nào dụng phép thuật gì. Tôi sẽ giải bày cho các ông biết vì sao, mấu chốt ở chỗ nào, bởi mấu chốt như chìa khóa sẽ mở ra dễ dàng các việc đang truy tìm.
Spal nhận ra học đạo quả là thú vị, các pháp Phật dạy có thứ lớp, có nguyên tắc vận hành chắc thật, tình lý rõ ràng, Spal thích thú như vừa tìm ra một chân lý.

7.HỌC ĐẠO, DẠY ĐẠO & MẤU CHỐT QUYẾT ĐỊNH SỰ THÀNH BẠI
Đạo sư nhìn Spal và Alen vười vui nói:
- Xưa nay các ông đọc kinh sách thấy việc tu học như có cái gì mơ hồ, không thực tiễn và khó nhọc trong đó. Không phải riêng hai ông mà hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Vì nhìn thấy hình ảnh những người đang tu có cái gì đó cực khổ quá, như bước vào một thế giới khác, vây bọc toàn sự khắc khổ. Nghe nói phải xả thân, xuất gia, xa rời thế tục, đủ mọi thứ giới luật cấm kỵ, người tu thì phải cố tuân thủ, người chưa tu nghe nói cũng đã phát sợ, sợ quá chẳng tìm hiểu chi thêm nữa.
Đạo sư có chút khôi hài:
- Ở đời người ta hay nhát ma trẻ con cho trẻ sợ đừng tới những chỗ tối tăm có thể bị nguy hại. Trẻ sợ quá mà không tới chứ không thật biết cái gì để sợ. Đứa trẻ này lại hù dạo đứa trẻ khác, nối tiếp như vậy, không trẻ nào thật sự biết gì cả. Chuyện tu cũng mờ mờ, mịt mịt như vậy, thôi thì một lần bày ra để rõ biết, biết rồi sẽ chẳng có chuyện gì để lo, để sợ nữa.
Đạo sư nghiêm trang nói:
- Ngày xưa Phật Thích Ca đi tìm kiếm phương cách tu để diệt khổ. Ngài rất cực khổ vì là người mở đường, theo học nhiều vị Thầy vào thời đó, đủ mọi thứ kiêng kỵ, bày ra những sự việc lạ thường, Phật Thích Ca cực khổ là vì vậy. Không hài lòng, Ngài rời bỏ tất cả tự đi tìm chân lý. Ngài đã tìm ra con đường giải thoát khỏi luân hồi sanh tử, như người đã tìm ra kho báu, chỉ dạy cho bao người thành tựu đạo pháp cũng như Ngài. Nay đã có sơ đồ chỉ vẽ rõ ràng đường tới kho báu, chúng sanh theo đó mà lần tới, sao nói là cực khổ, điều đó thật không phải.
- Phật Thích Ca muốn nhanh chóng tạo dựng một nền tảng vững chắc có đủ đầy các vị Alahán sáng biết như Phật. Chân pháp, pháp tu rốt ráo đạt đạo khai mở từ đó. Trước là cho mọi người tín tâm, biết rõ con đường Phật chỉ dạy cũng chắc thật như lời Phật nói, bằng chứng thực tiễn là các vị Alahán đã thành tựu được đạo quả. Kế tiếp, các vị Alahán truyền dạy cho chúng sanh từ đời này sang đời khác, không để Phật pháp mai một, là nghĩa độ tận chúng sanh vậy.
Đạo sư tiếp lời:
- Thanh văn đạo, Phật trực tiếp chỉ dạy, thuyết giảng cho nhóm đệ tử nòng cốt, gọi là phương cách tu rốt ráo để đạt đạo. Phương cách thực tiễn giải quyết các vấn đề trong thâm tâm, làm sao để diệt Sắc, Thọ, Thưởng, Hành, Thức là chung cuộc.
- Vọng tâm thế gian dứt thì Chân tánh, Chân tâm mới hiển lộ. Phương cách phải được người tu học hành trì, mọi việc rõ ràng, thực tiễn như vậy, không phải pha trộn các hình thức lễ bái, khẩn cầu như của các giáo phái đa Thần thời đó.
Đạo sư tóm ý, có hai phương cách tu rõ ràng minh bạch:
- Một là tu Chân, còn gọi là tu xuất thế, tốt ráo đạt đạo.
- Hai là tu Vọng, còn gọi là tu thế gian pháp, là tu sửa tâm ý trong thế tục, làm cho thân an, tâm an, cuộc sống an lành trong hiện kiếp, chân thật tâm, xa rời các việc xấu ác, làm lành, làm phước để trải thảm êm ái cho các kiếp sau.
Đạo sư nói :
- Cách thứ hai cũng là cách tu mà các tôn giáo khác chỉ dạy, gọi chung là thế gian pháp. Phương cách thứ nhất thì chỉ có Phật Thích Ca chỉ dạy, chỉ ra con đường vượt qua các tầng trời để không còn bị luân hồi trở lại nữa, là thật sự giải thoát khổ đau, phiền não.
- Đã biết có hai hướng đi như vậy, nay muốn tu học các ông phải chọn lựa dứt khoát, không thể lập lửng được. Nếu chọn con đường thứ nhất, quyết tâm tu rốt ráo thì phải theo đúng phương cách tu rốt ráo. Chọn theo con đường thứ hai thì tu theo phương cách thứ hai chỉ dạy, nghĩa là còn có việc chánh, tà, có thiện có ác, có tình có nghĩa, có sai có đúng, có được có mất, có mọi lễ nghĩa thế gian.
Spal nghe tới đây có ý hỏi :
- Biết hai con đường rạch ròi như vậy là đã biết mấu chốt, có phải vậy không thưa đạo sư ?
Đạo sư khẳng định :
- Đúng như vậy, phần lớn người tu trên thế gian do không rõ biết nên học tu cũng xen tạp, dạy tu cũng xen tạp, loanh quanh như vậy, một đòi khốn khổ cũng vì cái tu hành xen tạp mà ra, vì thiếu hiểu biết mấu chốt tu học.
Đạo sư nói tiếp :
- Ví như ông muốn đi con đường tu rốt ráo để đạt đạo, ngay như việc đi khất thực cho có cái ăn còn phải e dè, luôn thu thúc thân căn, bước nhẹ từng bước cho thân không động, mắt, tai thu thúc để ý không sanh, tâm không động, mọi việc ở ngoài đời ngưng dứt, không trồng một cây cỏ, không lưu giữ một vật gì, tâm ý hoàn toàn rời xa mọi thứ của thế gian để khi tọa thiền, ý mới lặng dứt, tuần tự diệt Sắc, Thọ, Thưởng, Hành, Thức.
- Nếu không rõ biết, đã quyết tu rốt ráo, đọc tụng kinh rốt ráo, giữ giới luật rốt ráo, lại làm các việc thế gian pháp là xen tạp. Làm đủ mọi thứ chuyện tạp nhạp trong ngày, nói năng cười đùa như người thế tục, cùng vui thú hý luận, tu như vậy thì mong gì thành tựu cho được. Chính vì tu xen tạp như vậy mà người tu thấy khổ thấy khó, tu hoài gần hết một đời mà một quả vị nhỏ Thanh văn cũng chẳng thành tựu được.
- Đã rõ biết mấu chốt, quyết tâm tu rốt ráo thì chuyện lại quá dễ, chỉ cần rời bỏ hết mọi thứ, không làm một thứ gì, chẳng nhớ chi chuyện thế gian, ngồi tọa thiền chờ đạt đạo, có phải làm gì đâu mà gọi là mệt nhọc, là khó.
- Người có ý tu rốt ráo đạt đạo mà hành xử như người thường phàm, lo làm các việc thế tục cho có phước là lộn lạo, là xen tạp cách tu thế gian pháp nên chẳng thể thành tựu được gì.
Nay nói người tu thế gian pháp lại xen vào học đủ mọi kinh sách dành cho người tu rốt ráo đạt đạo, rồi mộng mơ chuyện Chân tâm, Chân tánh, chuyện phước điền làm cũng không xong, không việc gì thành tựu, chẳng phải là chuyện phí công vô ích hay sao ?
- Lấy kinh sách tu rốt ráo để chỉ dạy cho người không tu rốt ráo là việc làm xen tạp, không đúng phép dạy tu. Tu học, dạy học đều xen tạp, lộn lạo cũng vì không thật biết mấu chốt cái gì phải học, cái gì dạy cho phải phép.
Spal suy tư :
- Nhưng làm sao biết ai là người tu rốt ráo, ai tu pháp thế tục để học hỏi.
Đạo sư nói :
- Ông chẳng cần quán xét căn cơ gì cả, người tâm động thì thân động, thân lăng xăng mọi việc trước mắt các ông là rõ biết không phải người tu rốt ráo. Tuy nhiên, các ông phải học biết cách quán xét căn cơ, không biết khó chỉ dạy thành tựu cho được.

8.QUÁN XÉT CĂN CƠ
Đạo sư nhìn Spal và Alen cười nói :
- Hai ông đã biết mấu chốt rồi thì tu học lại quá dễ, tu không những dễ mà còn vui thích nữa và mang lại nhiều lợi ích trong đời sống hàng ngày cho mình, giúp cả những người thân quen nữa.
Alen tiếp lời :
- Đạo sư nói sẽ chỉ cách quán xét căn cơ một người, là phải làm như thế nào ?
Đạo sư nói :
- Việc thì dễ nhưng các ông phải chú tâm nghe cho rõ. Các ông muốn học rõ biết căn cơ một người thì phải lấy cái nhìn, cái nghe mà biết, nghe nhìn nhưng không được phát thêm một ý ưa ghét riêng tư nào cả. Khi không thu nhận như một cái máy chụp hình, cái tổng quát toàn thân của một người sẽ được thu vào tâm thức. Không có ý riêng ngăn trở, thần thức các ông sẽ tự vận hành nhanh chóng và cho ra đáp án chính xác.
- Ví như nhìn một cái hoa, không nghĩ suy gì cả nhưng thần thức tức khắc đưa ra cho các ông biết hoa đó tên gì. Nếu từ nhỏ tới lớn các ông chưa một lần gặp loài hoa đó trong thực tế hay trong sách báo thì thần thức sẽ báo ngay “ Không biết ”. Đã không biết thì đừng cố truy tìm cho biết, chỉ là việc vô ích, bởi khi phát ý truy tìm cho ra lẽ thì các việc kế tiếp không thu nhận được nữa, ý truy tìm đã ngăn lối dòng tâm thức mất rồi.
Đạo sư tiếp tục :
- Những gì khác lạ tự khắc thần thức nhận ra trước, hai ánh mắt giao nhau là tự nó biết người đó quen hay lạ, hiền hay dữ, thông minh nhanh nhẹn hay lờ đờ bệnh hoạn.
- Thông thường, hình tướng của một con người thể hiện hết mọi thứ từ chuyện giàu hay nghèo, sướng hay khổ, hiền hay dữ, chân thật hay giả dối … Gương mặt, màu da, cơ bắp, tóc tai, mũi miệng, … ở mỗi người đều có những điểm khác nhau rõ rệt, tất cả đều bộc lộ quá trình sống của một con người.
Có va chạm thực tế ở ngoài đời thì thần thức sẽ tự lưu giữ mọi thứ, giống như một kho tư liệu. Ngược lại, nếu người ít giao tiếp ngoài đời thì phải học biết. Thông thường, đến ba mươi tuổi, sắc diện của một con người đã được thần thức tự thu nhận và lưu lại đủ đầy.
Đạo sư nhìn Spal và Alen nói :
- Nói như vậy là nói cho các ông một mấu chốt khác : “Tâm sanh sắc tướng”.
- Một người có ý đói, mới đi ăn, ý muốn diễn tả điều gì thì mới phát ra lời nói, có ghét mới có chửi bới nhau, có tham mới đi trộm cắp.
- Người có tâm tánh hiền hòa, tướng trạng sẽ dễ nhìn, dễ ưa, khi hung dữ lên, hình tướng, sắc mặt cũng chuyển đổi. Tích tụ lâu ngày, thân mang một sắc thái đặc trưng cho từng người, ví như người hung dữ thì có diện mạo khó nhìn, khó ưa, người không chân thật thì mang tướng trạng lấm lét, ánh mắt gian dối, lối nói lấp lửng,…
Người buôn bán, người làm việc ở văn phòng, nông dân hay thợ thuyền đều có sắc diện đặc trưng riêng, tất cả nếu khéo nhìn là khéo biết. Ví như những người cùng làm việc ở văn phòng, nhưng nhìn một người thư ký và một giám đốc thì không thể lẫn lộn được.
- Còn có thể nhận biết căn cơ một người qua hình thái bên ngoài như cách phục sức, các tiện nghi đời sống, cách ứng xử, … Tất cả đều mang sắc thái riêng, phản ánh tình trạng, tính cách của một người nghèo hay giàu, cẩn thận hay xuề xòa, thật thà hay gian trá, … Khéo nhìn là có thể thấy biết được mọi thứ.
- Tóm lại, người chịu khó học biết, khéo quan sát, nhận định thì nhìn phớt qua bề ngoài là có thể nhận biết căn cơ một người. Nếu chưa rõ biết thì phải nhận diện qua các chi tiết đặc thù hơn như đường chỉ tay, móng tay, … là những đặc trưng riêng của mỗi người, không ai có thể tự thay đổi hay làm khác đi được.
- Tâm thể hiện ra sắc tướng, tạo ra sắc tướng là như vậy. Mọi việc đều rất khoa học, thực tiễn, chẳng có chút gì là huyền hoặc, bí ẩn cả.
Đạo sư nói tiếp :
- Nếu sắc tướng chưa nói lên đủ cái cần biết, thì phải dụng tới cái nghe, nghe thanh âm giọng nói của người. Qua lời người nói, cường độ và thanh âm giọng nói, ta có thể biết cả những cái tâm ý còn tiềm tàng chưa lộ diện ra ngoài tướng mạo. Ví như người đêm hôm qua vừa mới toan tính chuyện trộm cướp, tuy sắc tướng chưa có hiển lộ nhưng quán xét thanh âm thì có thể biết được do âm khí loạn động bất thường.
- Con người vốn thích nói hơn thích nghe nên người khéo biết khơi vài câu hỏi là có thể nhận biết gần đủ đầy mọi thứ hoặc muốn biết tới đâu cũng được.
- Người thích lợi danh, tình tiền hay có tham vọng gì cũng tự lộ ra qua sắc tướng hoặc thanh âm giọng nói. Lời nói còn có thể nói thêm bớt, nói cao thấp, nói giỏi dở, nói che lấp hay ngụy biện v.v, nhưng thanh âm trầm bổng, trong đục, nhanh chậm của mỗi người đều khác nhau, của người già khác với người trẻ, của người hiền khác với người dữ, không thể nhầm lẫn hay che đậy được. Quán xét thêm về cường độ giọng nói, mạnh mẽ hay run rẩy, dứt khoát hay do dự, hưng phấn hay lo âu,  vui vẻ thoải mái hay buồn phiền bực tức,… hoặc giọng chứa đựng âm khí độc ác, gian manh, … Tất cả đều lộ ra qua thanh âm giọng nói.
Đạo sư nói thêm :
- Nếu còn hoài nghi trong việc xét sắc tướng, thanh âm giọng nói cá nhân thì cần quán xét căn cơ qua những mối quan hệ. Rõ biết gà thì sống cùng gà, vịt sống cùng vịt, một đất nước, một lãnh địa, một bộ tộc đều có những sắc thái đặc trưng, mỗi gia đình lại có lối sống, phong cách riêng, vì vậy, nhìn quan hệ bạn bè hay các nơi thường lui tới của một người cũng giúp cho việc quán xét căn cơ thêm tròn vẹn.
- Có những cái chung cùng các ông phải học thì mới biết được, ví như một tập thể hay một người lăng xăng, bức xúc với các nhu cầu, các sự việc trong đời sống cũng rõ biết thân tâm đang bị động loạn bởi đủ thứ việc, những lúc như thế, ở nơi như thế mà mở lời khuyên dạy là việc không thể.
- Không có một lời dạy khuôn mẫu nào chung cho tất cả mọi người. Nếu không học biết quán xét căn cơ thì không thể chuyển tâm người xấu ác trở nên thánh thiện được. Các pháp học mà tôi hướng dẫn cho các ông nhằm làm cho người vui thuận, tin tưởng, rồi tùy lúc, tùy nơi, tùy điểu kiện mà vận dụng một cách phù hợp thì mới hữu ích và thành tựu được.
Đạo sư xuống giọng:
- Đã học biết quán xét căn cơ rồi, thông hiểu vận hạn thời cơ, chỉ vài câu nói cũng khiến người ngộ ra, quay đầu trở về con đường thánh thiện, không phí công chỉ dạy.

9.THỰC HÀNH QUÁN XÉT CĂN CƠ
Đạo sư cười nói :
- Nay chỉ cho các ông cách thực hành học biết các việc như thế ngay ở trong đời, đó là việc học mà các ông sẽ thấy thú vị, hữu ích thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày, các ông hãy chú ý lắng nghe.
Đạo sư vui nói với Spal và Alen :
- Các ông hãy đắm mình theo cuộc hành trình quán xét căn cơ, nghe tôi nói đừng vội nghĩ suy gì cả. Tôi đưa các ông tới một phố thị, chỗ mua bán đông người, nơi có đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi thứ tâm ý sẽ hiện ra trước mắt các ông. Các ông hãy tìm một chỗ đứng cho có cái nhìn bao quát, đưa mắt nhìn mọi sinh hoạt chợ búa trước mắt.
Đạo sư chậm rãi nói :
- Mỗi người tới đây hẵn đều có ý tưởng, có suy nghĩ tới đây để làm gì, nếu không thì chân không thể đi đến đây được. Ngoài những người có ý định buôn bán còn có những người đi du lịch muốn nhìn ngắm mọi thứ ở đây, có người trong vùng đi dạo chơi qua phố, có người thầm lặng bảo vệ an ninh, đủ mọi thành phần, cũng là nơi nhiều kẻ trộm cắp tụ tập len vào.
- Người dạo chơi thì có sắc thái của kẻ dạo chơi, người du lịch mang sắc thái riêng của kẻ du lịch, người mua bán thì để tâm vào chuyện mua bán, tất cả đều có cái để ta nhận biết. Nơi đó các ông sẽ nhận ra có một số người không có sắc thái gì rõ nét, các ông hãy tập trung vào ánh mắt của những kẻ như vậy. Ý gì lộ ra nơi mắt họ, tức thì ta biết rõ họ là ai, muốn gì và sẽ làm gì. Mắt hay nhìn vào túi người qua lại đích thị là kẻ móc túi, mắt nhìn vào đồ đạc người này, người kia thì đó là kẻ trộm đồ. Có kẻ không nhìn người khác chỉ lo nhìn kẻ móc túi trộm đồ, nếu không có sắc thái của một người giữ an ninh đi bắt kẻ xấu thì lộ ra là đồng lõa của kẻ xấu, đợi thời cơ để chen vào che chắn cho kẻ xấu hành động.
- Các ông sẽ nhận diện được rõ ràng mọi thứ khi có cái nhìn quán xét như vậy. Xưa nay các ông không lưu tâm nên không biết đó thôi, ai lưu tâm cũng đều nhận ra được rõ ràng như vậy cả.
Đạo sư thấp giọng:
- Mọi thứ đều phải học biết với cái nhìn mà trong tâm không có vướng bận việc gì như âu lo, suy tính v.v. Tâm thông thoáng thì mọi thứ sẽ hiện rõ, thần thức tự nó nhận biết như thật. Thông thường, ai cũng bị một ý gì hay một sự việc gì đang vận hành trong tâm ý nên che chắn cái thật thấy trước mắt. Nói như vậy chẳng phải chỉ cho các ông đi bắt các ý tưởng đang che chắn không phải lúc, không phải nơi trong tâm ý của các ông.
- Mọi pháp học, pháp tu đều là Tâm pháp, nếu không học cách nhận diện tâm ý thì không mong thành tựu được gì cả. Mấu chốt khởi đầu này gọi là pháp Đối diện tâm. Các ông luôn nói tôi có ý, tôi suy tưởng, tôi suy tính v.v… Đó là các thứ vận hành trong tâm thức, nhưng chưa có thực hành đối diện với nó thì thật sự chưa thật biết nó ra sao cả.
- Các ông hãy tìm nơi vắng vẻ, để ánh nhìn vào một vật gì đó. Cái nhìn bình lặng, không phải tập trung để biết điều gì cả, chỉ một điểm đó thôi, rồi đợi xem ý gì sẽ ló ra trong thân tâm, nó là ý gì thì cũng mặc kệ nó, nó sẽ tự lặng đi, ngồi đợi tiếp ý khác sẽ hiện ra. Đây là cách thực tập nhận diện ý tưởng của mình, xưa nay mình với nó như là một, nay rõ ràng mình đang ở trong tư thế kiểm soát, nhận diện các ý trong thân tâm.
- Thuần thục rồi thì có ý gì sanh ra đều nhận biết được, chỉ nhận biết thôi chứ chẳng phải làm cho ý không sanh, không can thiệp gì cả. Bao nhiêu ý sanh ra thì nhận biết ngay khi nó vừa sanh ra, đó là ta đang đối diện tâm ý của mình.
- Nơi thanh vắng đã nhận diện được thuần thục rồi thì chuyển tầm mắt tới những chỗ có cảnh động để thực tập, cũng chỉ chờ xem ý gì sanh ra thôi chứ chẳng phải tìm xem cái gì ở bên ngoài. Chưa thực hành đối diện tâm ở chỗ vắng vẻ thì không thể nhận diện được tâm ý mình ở nơi sinh hoạt có sự chuyển động được.
Đạo sư nhắc nhở:
- Chẳng phải việc gì nghiêm trọng cả, nếu có chuyện gì xem vào hay có ai tới quấy rầy thì hãy ngưng lại, chẳng có gì phiền hà, xong rồi thì tiếp tục luyện tập như vậy. Tọa thiền thì người ta tránh mọi cái xen vào khi đang hành thiền, nên việc luyện tập thiền đòi hỏi nơi chốn riêng biệt. Đối diện tâm thì khác hẳn chỗ nào, nơi nào cũng có thể thực tập theo dõi tâm ý mình.
Alen nghe tới đây có ý hỏi :
- Mục đích tập luyện như vậy để làm gì? Xưa nay ý sanh thì nó cũng tự sanh, rồi nó cũng tự diệt, nay mình không rào đón, không xen vào thì mọi thứ vẫn như vậy, chẳng biết thực tập để làm chi, xin đạo sư vui lòng cho biết.
Đạo sư đáp :
- Ý tưởng và mọi thứ thuộc về tâm, ta không thể can thiệp. Không lấy cái gì ngăn được, bởi nào có biết ý nó ra sao ? Ở đâu ? Khi nào thì phát sanh ? Chẳng biết chút gì về nó mà nói ngăn che được là nói không thật.
- Khi đã đối diện tâm thuần thục rồi, ý giận, ý tham cùng mọi ý phát sanh đều nhận biết được, nay chỉ còn là việc ta quyết định lấy hay bỏ mà thôi. Bỏ là không chạy theo ý giận, ý tham, nó sẽ tự mất đi, ta sẽ được an lành vì không gây ra lỗi xấu ác. Lấy có nghĩa là biết mình tự chọn tham, chọn sân giận, vì một căn do gì đó, đã có chủ ý như vậy nên bị tù tội hay có phiền hà gì thì cũng không ta thán. Nói vậy thôi, chứ khi biết mình sắp nói làm người ta chửi mình, đánh mình hay bị tù tội, khổ đau thì chẳng ai khờ khạo tự rước phiền lụy vào thân. Mọi sự an lành, thân an, tâm an cho người biết đối diện tâm ý. Pháp đối diện tâm được thành tựu rồi vậy.
Đạo sư tiếp tục :
- Khi đã đối diện tâm một cách thuần thục thì sống trong đời, thân tâm được an tịnh vì đã biết tự lấy điều hay, điều tốt và rời bỏ cái xấu ác, tội lỗ rồi. Người đã đối diện tâm ý được rồi là thực sự bước vào con đường an lành, thân an, tâm an, cơ thân, sắc tướng cùng cuộc sống dần chuyển đến chỗ tốt đẹp, thánh hiền.
- Chỉ mới dụng một pháp Đối diện tâm mà đã thành tựu được bao điều kỳ diệu như vậy !
Trong việc tu thiền định cũng vậy, không dẹp diệt gì tâm ý cả, chỉ là dụng pháp Đối diện tâm và chọn cho tâm ý trụ về một hướng đã định, ý đó còn thì ý khác sanh ra không được mà thôi.
Spal đã từng đọc qua các sách về thiền nên thắc mắc :
- Tọa thiền là muốn diệt ý, nay để tâm ý  trụ vào một cái gì cũng là còn ý thôi, nào có lợi ích chi, xin đạo sư vui lòng giảng rõ hơn về việc này.
Đạo sư nói:
- Ông nói như vậy là đúng, lấy niệm chánh thay niệm tà cũng là còn niệm, nhưng điều ông chưa rõ là phương cách dạy tu thiền cũng có mấu chốt, phải rõ biết thì dạy thiền mới có kết quả. Tôi chỉ nói riêng về thiền rốt ráo đạt đạo quả, không nói các loại thiền tập lắng tâm, an tịnh cho khỏe mạnh như Yoga, hay thiền quán xét một đề mục gì cho thông tỏ.
- Tôi nói một ví dụ về pháp trụ tâm, khi trụ tâm ý vào giọt nước rơi, nước hết, giọt nước ngưng rơi, tâm hoát nhiên không còn chỗ trụ. - Cũng như người trụ tâm vào đốm sáng trên đầu cây nhang, nhang hết, đốm sáng chợt tắt, tâm hoát nhiên vô sở trụ.
- Hay như người trụ tâm vào hơi thở ra vô, hơi thở cạn mỏng dần rồi mất hẳn, hoát nhiên rơi vào trạng thái dứt thở, dứt niệm … lọt qua lãnh địa tâm không.
- Hoặc như người dụng phép Phật hay trì chú, trụ ý vào câu niệm hay câu chú, mỏi mòn niệm, chú chợt mất, tâm rơi vào chỗ vô sở trụ.
- Mấu chốt dụng tâm theo một hướng đã định là như vậy, để thân tâm rơi vào chỗ vô trụ. Tất cả những trường hợp như vậy đều rơi vào lãnh địa nhập lưu, đạt vị quả Tu Đà Huờn.
Spal có chút dè dặt hỏi :
- Đạo sư nói về pháp Đối diện tâm, tôi thật sự hiểu rõ ràng và có thể thực hành thành tựu được với quyết tâm tu học của mình. Nhưng những lời sau cùng đạo sư nói về các phương cách để rơi vào lãnh địa Tu Đà Huờn - một quả vị thánh, sao có thể có được dễ dàng như vậy? Có thật dễ dàng như vậy không, xin đạo sư chỉ dạy cho.
Đạo sư có chút nghiêm trang nói :
- Tôi chưa từng nói lời không thật hoặc nói bông đùa với các ông khi nói về chuyện đạo. Thực tế,việc đạt quả vị nhập lưu như vậy thật quá dễ dàng cho người quyết tâm tu học. Người đã có căn cơ, chỉ một vài giờ tu tập, thực hiện các mấu chốt chỉ dạy là có thể vào chỗ nhập lưu. Các ông đừng tưởng những điều tôi vừa nói là mấu chốt thực hành, đó chỉ là lý thuyết về cái hướng sẽ tới mà thôi, mấu chốt Chân pháp không bày ra phêu phêu như vậy.
- Đúng người, đúng thời cơ, hợp duyên, đạt lý thì mới thầm truyền trao cho từng bước một. Như tôi đã từng nói chẳng phải vì ưa hay ghét mà không chỉ dạy, chỉ vì căn cơ chúng sanh và những tai hại mà chúng sanh có thể va vấp nên chưa truyền trao thôi.
- Người đạt pháp hành rồi cũng giống như kẻ vượt được qua sông, chẳng còn gì thôi thúc nhọc mệt nên có thể thung dung vào ra tất các các tôn giáo, tông môn. Phương cách tu nào cũng có thể đưa đến các vị quả cả, tuy nhiên, muốn vược xa hơn nữa thì phải tuân thủ theo những điều chỉ dạy, vượt qua phạm vi của tôn giáo hay tông môn, chỉ còn lại một vị Đạo giải thoát mà thôi.
Spal vui thích nói :
- Tôi không ngờ ngộ được cái đạo nó thanh thoát như vậy, hiểu rồi không còn hạn hẹp ở trong một giáo điều nào, một tôn giáo nào. Tuy nhiên, tôi còn chút suy tư, vì sao chuyện chẳng khó như vậy mà chẳng mấy ai đạt được ?
Đạo sư nhìn xa xôi giọng trầm xuống :
- Nói chưa đủ duyên là nói cho dễ nghe, thật ra vì những nghiệp lực còn tồn đọng quá sâu nặng, cho nên một người dù có biết như các ông đây cũng không thể xâm nhập được.. Cái mê mờ, cống cao ngã mạn khiến một lời chân thật cũng không nói ra được, lòng không chân thận làm sao có Chân pháp trao truyền, lý chỉ như vậy.
- Như tôi đã chỉ dạy cặn kẽ cho các ông, Chân thật tâm chẳng có, đối diện tâm chưa xong, Sám hối chưa tròn, thì tu gì cũng không tinh tấn được, rõ hiểu rồi thì phải quyết tâm làm cho được.
- Ở phương Tây, ai cũng biết câu: “ Người giàu có, vô được nước thiên đàng còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim …”. Thật vậy, người giàu cũng có khi bị phá sản, chẳng còn giàu nữa nhưng kẻ cống cao ngã mạn, trịch thượng thì luôn coi cái sáng biết, cái họ có được chẳng ai hơn được, dù giàu hay nghèo cũng mờ mắt vì cái hào quang sáng biết của họ.
“Người cống cao ngã mạn, trịch thượng, khinh người có thể vào được nước thiên đàng nhưng không thể có được Chân pháp.”
Alen lặng lẽ thu nhận đầy đủ những lời của đạo sư, một chút suy tư Alen hỏi :
- Đạo sư có thể nói sơ về các mấu chốt ở trong thiền rốt ráo đạt các vị quả, có bị cấm kỵ nói ra hay không ?
Đạo sư cười nói :
- Ông hẳn có biết qua chút ít về thiền nên hỏi cũng có phần thú vị. Mấu chốt thì không có gì khó cũng không có gì bí mật hay huyền hoặc mà bị cấm nói hay cấm dạy. Ông biết, mọi người cùng biết, cùng tu để có được các vị quả, đó là phước phần lớn của chúng sanh chẳng phải của riêng ai. Tôi không có mưu cầu gì riêng ở phía sau nên chẳng có có gì không nói ra được. Học biết được là thực hành được, nối tiếp chỉ dạy cho người khác được, Phật cũng chỉ mong được như vậy.
Spal có ý lo lắng hỏi :
- Đạo sư chỉ dạy thiền rốt ráo sao có vẻ đơn giảng quá như vậy, lẽ ra phải có đủ đầy lễ bái Sư, thọ Pháp chứ, xưa nay tôi thấy việc chỉ dạy thiền khó khăn lắm mà.
Đạo sư có chút suy tư nói :
- Ông nói có phần đúng, ví như trong thế gian khi trao một món quà quí thì người cho kẻ nhận cần có sự trang trọng là việc tốt. Cái thời xa xưa tâm chúng sanh chưa thông sáng nên Thầy tổ bày ra nghi lễ thật trang trọng là có ý giúp người tu học biết tôn trọng quí mến mà cố gắng tu cho mau thành tựu.
- Phật vì thương xót chúng sanh mà dạy tu học chứ chẳng vì cái gì cả. Ai thông tỏ rồi thì cũng làm như Phật thôi, Phật trước Phật sau y như nhau vì cùng cái sáng biết như vậy. Hữu duyên vạch đường cho các ông chứ chẳng vì ưa hay ghét mà nói hay không nói!

10. MẤU CHỐT THIỀN RỐT RÁO
Đạo sư dặn dò trước khi nói về mấu chốt thiền rốt ráo :
- Các ông phải chú tâm mà thu nhận, nếu còn chút thắc mắc gì thì nên hỏi ngay bởi hôm nay còn gặp ngày mai chẳng gặp thì có muốn hỏi gì cũng chẳng được.
Alen và Spal trịnh trọng ngồi ngay ngắn lại để nghe đạo sư nói về mấu chốt thiền rốt ráo đạt đạo, một cơ hội mà trước đây họ có mơ tưởng cũng không thể có được.
Đạo sư nói:
- Tu thiền phải rõ biết, dù có đạt vị quả gì thì cũng chẳng phải là cao hay thấp, vướng mắc chỗ như vậy sẽ pháp sanh nhiều chuyện phiền hà không thăng tiến được. Nghĩ sai trái, lợi dụng cái biết của mình làm chuyện mờ mịt phía sau là lấy cái biết của mình tự trói buộc và gây hại cho chính mình. Nhân xấu ác gieo ra thì không ai thoát được quả báo khốn khó, Phật và các vị Alahán ngày xưa cũng không ngoại lệ khi còn sống trong vòng trời Nhân quả này.
- Ngoài ra phải hiểu hành thiền là trở vào quán xét trong cơ thân, trong tâm ý nên luôn nhận biết có những cảm giác là lạ như nóng hay lạnh, mát mát, nhồn nhột v.v Là những cảm giác biến chuyển nơi thân, là việc thông thường, không phải việc gì đáng mừng hay đáng sợ cả.
- Tâm thức vận hành nhận biết như thấy những hình ảnh hiện ra trước mắt vậy, đó chỉ là những vận hành tâm thức của mình chứ không phải những việc do trời đất mang tới hay do ai quấy phá nên đừng lo lắng. Biết rõ như vậy nên không bị vướng bận nghĩ suy gì cả, tự nó sẽ qua đi. Việc gì còn vướng bận trong tâm ý đều là những chướng ngại trong thiền.
- Những ấn chứng khi thiền có gì chưa thông rõ cần hỏi ngay người chỉ dạy mình, có như vậy mới an tâm trong những giờ thiền kế tiếp, dù thấy biết gì cũng như khi đối diện tâm, không vướng mắc tự nó sẽ qua nhanh.
Một cách chậm trãi, đạo sư nói :
- Những phương cách tôi nói rõ ở đây không làm nguy hại cho ai cả, các giai đoạn này có vượt qua được thì mới thực hành tiếp những giai đoạn sau. Phải tuần tự thứ lớp như vậy, không có cách gì thực hành cái thứ hai mà chưa qua được cái thứ nhất, nóng vội thì không thể được.
- Người khéo học thiền, khi đã chọn thực hành phương cách nào thì không nhớ nghĩ đến những phương cách khác trong khi bắt đầu tọa thiền. Xả thiền rồi, muốn so đo, muốn phán xét gì cũng được, không có sự cấm kỵ nào cả, không phân biệt nam hay nữ, dân tộc nào, tôn giáo nào, người tu hay chưa tu gì cũng làm được. Mọi việc đều thực tiễn, khoa học, làm đúng thì được, làm không đúng thì không được, không o ép nguyện cầu hay bài bác tín ngưỡng nào cả.
Đạo sư nói thêm :
- Trong giai đoạn một và giai đoạn hai thì không luận bàn việc ăn chay hay ăn mặn, rượu uống vào thì có muốn ngồi chơi cũng không yên nói chi đến việc ngồi thiền, nên cũng chẳng cần nói cấm hay kỵ. Chủ yếu thân có an, có khỏe, bụng không no đầy, thời khắc nào thích hợp, chỗ nơi nào an ổn, không bị ai quấy rầy, đều có thể vào tọa thiền được. Ở giai đoạn này cũng chưa o ép ngồi kiết già hay bán già, người khuyết tật ngồi ghế sao cho cổ, đầu, thân có tư thế thẳng ngay, không tựa lưng vào vật gì, chạm nhẹ lưng thì được. Tuy nhiêm nên luyện tập dần cách ngồi bán già rồi tới kiết già việc này ai biết thì hướng dẫn cho cũng được, không o ép tập theo một khuôn mẫu nào.
- Quan trọng là sang giai đoạn ba và bốn, thân sẽ ở trong trạng thái người ngủ nên nếu ngồi không vững, không cân đối thì sẽ bị lật ngã, làm gián đoạn việc tu thiền. Ngồi với tư thế kiết già thì an ổn, vững chắc không bị lật ngã, ngồi bán già cũng bị té ngã.
Đạo sư nói tiếp :
- Cách ngồi thiền, xả thiền thì Yoga hay thiền nào cũng như vậy, tôi chỉ nói rõ những mấu chốt trọng yếu thôi. Khi tọa thiền hai bàn tay ngửa lên, tay này đặt lên tay kia, các ngón tay trên dưới đan xen kẽ nhau, hai đầu ngón tay cái phải chạm nhau, việc này cần thiết phải ghi nhớ, sẽ dụng tới trong giai đoạn hai.
Hai bàn tay ở tư thế như vậy người xưa gọi là Ấn tam muội. Nói ấn tam muội nhiều người nghĩ có chuyện huyền hoặc gì trong đó, không phải như vậy. Nếu hai bàn tay không trong tư thế đó thì không thể tiếp tục ở giai đoạn hai, làm sao có thể tới được các giai đoạn ba, bốn, để đạt chỗ gọi là tam muội, vì thế nên gọi là ấn tam muội.
- Hai cánh tay ôm nhẹ bên hông, bàn tay đặt trên gan bàn chân. Nếu ngồi tư thế kiết già hay bán già các tư thế khác cũng nên có khăn thay gối nhỏ đệm dưới hai bàn tay cho êm ái.
Đạo sư nhắc kỹ lại :
- Hai bàn tay để trên hai đầu gối là trong thiền quán xét đề mục để thông tỏ một việc gì trong đề mục hay thiền cho thân tâm an tịnh, bởi ở tư thế đó dễ chịu hơn tư thế ấn tam muội trong thiền rốt ráo. Nói rõ như vậy để thật hiểu không phải muốn để tay ở đâu cũng được, trong khi hành thiền rốt ráo, hai tay phải trong tư thế ấn tam muội.
Đạo sư nói tiếp :
- Lưỡi chống lên ổ gà, phải tuân thủ việc làm hơi là lạ này. Lưỡi co lên để đường tiêu hóa ép lại, hơi thở ra vô không ảnh hưởng đến hơi khí từ bao tử, làm như vậy vị giác dần mất cảm giác, nước miếng không chảy ra, mấu chốt này cũng phải tuân thủ.
- Phần quan trọng nhất là ở nơi đầu, kéo cằm vô ép thanh quản một chút chứ không phải là cúi đầu, mắt khép hờ lại còn một phần ba, hai mắt nhìn chéo nơi đầu mũi, không được nhắm mắt. Mấu chốt quan trọng nhất là tại nơi hai con mắt này.
Đạo sư cẩn thận nhắc nhở lại mấu chốt quan trọng ở nơi hai con mắt :
- Nhìn tất cả các tượng Phật, cái thấy đầu tiên là mắt khép hờ lại, nhìn xuống chóp mũi. Vì sao nói chỗ này là mấu chốt quan trọng, các ông lưu tâm các điều tôi nói sau đây.
- Mắt mở không đúng cách vào thiền còn ngủ gật, nhắm mắt thì sẽ ngủ là chuyện đương nhiên, nhưng cũng không phải trợn mắt hay mở mắt to lên để cho đừng ngủ gật. Vì sao phải nói rõ như vậy? Hai mắt nhìn chóp mũi là chìa khóa, nó liên kết với pháp Định thần, tôi sẽ chỉ dạy rõ khi thực tế tọa thiền, không rõ chỗ này không thể thành tựu thiền được.
Đạo sư cẩn trọng nói tiếp :
- Thiền rốt ráo là muốn đưa con người vào rạng thái ngủ mà tâm thức biết vẫn còn, không phải làm cho ngủ để rồi mơ mộng thấy cái này cái nọ, làm như vậy là ngủ mơ, không phải thật.
- Thiền chưa đúng phương cách là phải ngủ gục thôi, nói bị bệnh ngủ gục là sai trái. Vào thiền mà tỉnh táo ngồi hoài một hai giờ, ai cũng nghĩ như vậy là hay, là tốt hoặc khoe rằng đã ngồi được hai, ba giờ không ngủ gật. Nghe qua là biết người nói chưa có duyên học được thiền rốt ráo, chỉ học thiền như một bài Yoga mà thôi. Thiền hoài không được vị quả gì bèn hỏi Thầy dạy thiền vì sao vậy ? Thầy nói tu có cần chi đắc được các vị quả như vậy, vị quả Thanh văn thấp lắm. Thung dung tự tại có thêm từ bi là Phật, là Bồ tát rồi, chẳng hay hơn sao?
Đạo sư cẩn trọng nói :
- Người dạy đạo nói như vậy là chẳng phải phép. Vì lầm hiểu hay vì mưu cầu gì phía sau nên nói như vậy là phạm tội phỉ báng Phật. Phật dạy đạo 45 năm, đệ tử Ca Diếp cao tột cũng chỉ đắc Alahán của Thanh văn đạo. Phật chỉ thọ ký cho một số đệ tử có nhiều từ tâm sẽ làm Bồ Tát trong cô số kiếp sau này. Nay lại nói vị quả Thanh văn, Alahán còn thấp lắm cần chi đắc được, thử hỏi ai sẽ chỉ dạy cho được quả vị cao hơn Phật dạy đây?
- Phật hay ví, tu là trở về được Chân tánh, Chân tâm của mình, ví như người bị lạc đường, nay trở về nhà xưa của mình, nào có đắc được gì khác lạ đâu ! Phật nào có nói tu đừng đắc, đừng được quả vị gì. Hiểu sai trái, dụng lời Phật dạy trong bài pháp này đem vào chỗ khác là nhầm lẫn. Phật chẳng từng thuyết trong kinh Thủ lăng nghiêm : “ Các ông chỉ lo sắc tướng, âm thanh, cả đời tu mà một vị quả nhỏ Thanh văn cũng không đạt được, thật uổng phí một đời tu !”. Tu mà nói chê bai vị quả là không phải phép.
Đạo sư nói rõ :
- Kinh sách có ghi chép rõ ràng ai đắc được Tu đà huờn, ai tu được Tu đà hàm, ai là Alahán … Bao nhiêu đệ tử đắc Alahán kinh sách đều có ghi chép, nay nói tu có gì để đắc, để được, có là lời làm mờ mịt chúng sanh không ? Hiểu như vậy để không va vấp lỗi lầm, lỗi thì thấy như nhỏ nhưng tội thì không đo đếm được.
Đạo sư nói thêm :
- Tôi nói rõ như vậy vì tu thiền rốt ráo là cầu đạt cho được vị quả. Dù chỉ một vị quả đầu tiên là Tu đà huờn hay còn gọi là Bất thoái quả, như vậy là chân đã bước vào nhà Như lai. Biết rõ con đường tu đúng hướng như Phật đã chỉ dạy nên tâm không còn hoài nghi và không còn thối chuyển nữa, tín tâm mà lần tới các vị quả sau.
Say sưa nghe đạo sư giảng dạy, Alen chợt lên tiếng hỏi :
- Đạo sư giảng nói thiền nghe dễ dàng làm sao ! Xin đừng khéo khích lệ chúng tôi như vậy !
Đạo sư nhìn xa xôi nói :
- Quả tình nó thật là dễ, hiểu rõ mọi mấu chốt rồi, người có trí tự hạ quyết tâm trong vài giờ tọa thiền cũng có thể dứt thở, dứt ý, vào được vị quả Tu đà huờn. Nhưng chính vì đời có nhiều cái giả trá nên người hành thiền luôn có sự mập mờ, hoài nghi, chưa thật biết gì cả cũng luận suy đúng sai, hay dở, loanh quanh như vậy hết cả một đời.
Alen hỏi :
- Như vậy là đạo sư đã nói hết các mấu chốt chưa ? Theo đó, có thể hành thiền được không ? Xin đạo sư cho biết.
Đạo sư cười nói :
- Tôi mới nói cho các ông mấu chốt ở phía bên ngoài sân, ngoài cổng thôi, các ông đã hạ quyết tâm thiền thì hãy lặng lẽ nghe. Tôi sẽ nói mấu chốt cốt lõi, không biết thì làm sao có chìa khóa để mở cửa nhà Như lai đây !

11. THIỀN RỐT RÁO PHẢI HỌC, PHẢI BIẾT
Spal và Alen, hai nhà khoa học lừng danh của hoàng gia Anh quốc thật chẳng hiểu vì sao đạo sư có sự ưu ái truyền dạy tu thiền rốt ráo, chẳng khác nào truyền cho Chân pháp. Hai người đã hiểu rõ Chân pháp chẳng phải ai cũng được Chân sư truyền dạy.
Spal thâm trầm hơn Alen nên có ý dọ hỏi đạo sư :
- Thưa đạo sư, hai anh em chúng tôi chưa nói lời cầu xin đạo sư truyền trao diệu pháp, đạo sư cũng chưa biết lai lịch của hai anh em chúng tôi, vì căn cơ gì đạo sư chỉ dạy tận tình như vậy. Tôi biết rõ thiền rốt ráo là con đường đi tới Chân tâm, Chân tánh. Xưa nay người ta trao truyền thật cẩn trọng, nay vì sao đạo sư dễ dàng chỉ dạy như vậy ?
Đạo sư nhìn Spal cười nói :
- Ông nói thật chí lý, với thực tế xưa nay là như vậy nhưng với tôi thì lại khác hẳn. Ví như hai ông đây, muốn đi tầm cầu Chân sư để mong chỉ dạy cho Chân pháp, tôi hỏi hai ông : “Các ông lấy con mắt nào thấy biết được Chân sư mà tầm mà tìm. ”
Các ông đã mỏi gối mòn chân rồi phải không ? Đã gặp nhiều điều không thật, nhiều việc giả trá, nhưng cho tới giờ này các ông chưa bị sa chân vào hầm hố mê tín cũng là nhờ các ông có cái sáng biết trong đời, nên chưa bị ai gạt lừa được. Tôi rất vui và hài lòng khi muốn truyền trao mọi pháp học cho hai ông chẳng riêng gì thiền đâu.
Alen reo lên :
Đạo sư thật vĩ đại, tôi xin nhận làm đệ tử, quyết theo chân đạo sư học đạo và hầu hạ đạo sư cho tròn đạo nghĩa.
Thương xót cho người quá trực tính, đạo sư nói với Alen :
- Tôi không có chùa, không có đệ tử, cũng không nhận đệ tử, các ông có muốn làm bạn với tôi thì được.
Spal không nói lời nào, chỉ thu nhận cái gì trước mắt như bài học đạo sư vừa chỉ dạy Đối diện tâm. Spal thật sự xúc động vì nghĩa cử thông thoáng tột độ như vậy của đạo sư.
Đạo sư nói:
- Người khác thì thích có đệ tử, có chùa để hoằng pháp dạy đạo, tôi thì khác hẳn, chỉ muốn tìm bạn thôi. Bạn yếu kém thì mình giúp cho bạn bằng được như mình, xong việc để bạn thung dung tự tại, không phải vướng bận nhau như tình Thầy trò thường tình ở thế gian.
Đạo sư nói tiếp :
- Tôi đã đi khắp nơi tìm bạn như người đi tìm kho báu. Người bạn có đủ phẩm chất tốt đẹp thật chẳng khác một kho báu vậy. Thông thường, xưa nay tất cả các tôn giáo đều có nơi, có chỗ cho người ta lui tới mà chỉ dạy đạo pháp, giúp cho người bớt đau, bớt khổ cũng là chuyện tốt lành. Nhưng tôi thì lại thấy khác, chỉ có như vậy còn là chuyện làm hời hợt ở ngoài ngọn, như bệnh đau rồi mới trị, nhà cháy rồi mới tới chữa, cây lá sâu rồi mới bắt sâu, xịt thuốc.
Đạo sư lấy ví dụ cho dễ hiểu :
- Ngày xưa chuyện học hành là chuyện tự nguyện nên chỉ một số người dốt chữ chịu tới trường để Thầy dạy chữ nghĩa cho. Ngày nay người ta có cách nhận định khác hơn, không thể để nạn mù chữ, thất học tràn lan, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính quyền các nước thấy rõ cần giải quyết tận gốc vấn đề này nên vừa khuyến khích, vừa ép buộc mọi người phải học chữ nghĩa, hệ thống giáo dục được phát triển rộng khắp đến tận thôn quê, rừng núi.
- Chuyện học đạo cũng tương tự như vậy, đạo học còn đang là chuyện tự nguyện cũng y như ngày xưa chữ nghĩa để mọi người tự đi học vậy.
Đạo sư suy tư nói:
- Nạn thất học tràn lan thì mọi người vẫn còn có chỗ sống được, nền tảng đạo đức không có thì người ác gian đầy khắp, là một thảm họa không lường được. Người ngu dốt mà gian ác có thể ví như quỷ con, ma con. Nếu chỉ dạy cho người càng trở nên thông minh, tài trí, càng có nhiều quyền lự mà không có đạo đức thì sự ác gian càng lớn, có khác nào tạo Ma vương Quỷ vương đâu.
- Toàn thế giới hiện tại đang đi dần tới địa ngục như thế. Cha mẹ thương con, chính phủ thương dân mà không quan tâm giáo dục đạo đức, chỉ lo giải quyết chuyện cơm áo gạo tiền, cho học hành đủ mọi thứ khoa học kỹ thuật hiện đại, thì khác nào đang đào tạo ra Ma vương, Quỷ vương. Thương không đúng cách, thương mà không sáng biết hóa ra gây hại không riêng cho cá nhân mà còn tiến tới hủy diệt cả nhân loại.
Đạo sư trầm giọng nói :
- Tôi chỉ muốn tìm bạn, những người bạn biết được cái thảm họa to lớn như vậy để chung sức chung lòng, cùng nhau bàn bạc, tìm kiếm giải pháp thỏa đáng, mới có hy vọng xoay chuyển được vận hạn này. Vì vậy, tôi muốn truyền đạt hết cái biết của mình để các bạn cũng được như vậy, chứ chẳng phải dạy đạo giúp người sáng biết, diệt khổ cho riêng mình hay giới hạn trong phạm vi một tập thể, một lãnh địa, một quốc gia nào.
Alen nghe tới đây thấy sợ hãi, rùng mình nói :
- Xưa nay tôi đã đào rạo biết bao nhiêu nhân tài xuất chúng về khoa học nhưng chưa hề đề cập đến đạo đức, chương trình giáo dục cũng chỉ có một số giờ công dân giáo dục, được xem như môn học phụ mà thôi. Quả là thế giới chỉ quan tâm đào tạo những con người tài ba lỗi lạc về khoa học kỹ thuật mà thiếu hẳn đạo đức. Tôi đã từng tự hào là người thông minh, tài trí mà chuyện to lớn như vậy lại chưa một lần nghĩ tới, quả thật là mê mờ.
Spal reo vui nói với đạo sư:
- Tôi đã thật hiểu ra, việc tu học của mình thật sự là vì mọi người, vì chúng sanh, có như thế mới xứng đáng với đạo học cao cả mà Phật đã khổ công chỉ dạy.
Đạo sư gật đầu nói:
- Đúng như vậy, mọi người cần phải chỉnh sửa lại quan niệm hẹp hòi, nghĩ rằng tu học để sáng biết, diệt khổ cho riêng mình, cho những người thân quen hay chỉ cho dân tộc mình.
Alen hiểu rõ ý tưởng của đạo sư và Spal, xúc động nói :
- Lúc trước, tôi nôn nóng chờ đạo sư chỉ dạy cốt lõi của thiền rốt ráo, nay tôi thấy còn việc trọng đáng làm hơn, việc học thiền rốt ráo tôi thật sự không lưu tâm nữa.
Đạo sư cười nói cổ vũ cho Alen :
- Việc học thiền rốt ráo hai ông cũng phải học cho bằng được vì nó là nền tảng vững chắc, không học không được.

12. TRANG TRẠI CẢI TƯỚNG SỐ
Đạo sư giảng giải vì sao phải học biết về thiền rốt ráo:
- Khi vào được một, hai quả vị thiền rồi thì tâm của các ông sẽ chuyển vận đúng hướng, không còn sai lệch nữa. Cái thấy biết về thế gian cũng khác đi, mọi thứ rõ như thật, không bị vướng mắc việc gì nữa, như người thấy biết được cơ thân của mình, nó như thế nào thì cũng là cơ thân mình, không nói ghét ưa gì nữa cả, chỉ một lòng lo cho nó tốt lành thôi.
Đạo sư chỉ tay về phía chàng thanh niên đang chụm lửa nấu nước pha trà nói :
- Anh ta tên Babu, người sống ở vùng này, gia đình rất giàu có, đã có ý mời tất cả chúng ta về nhà. Nhà cửa Babu rất khang trang, các ông đừng ngại, trước là chỗ nghỉ ngơi sau có địa điểm chỉ thiền rốt ráo cho hai ông, Babu cũng muốn được tham gia thực hành thiền. Về đó, tôi sẽ kể rõ căn cơ chuyện của chàng thanh niên này và vì sao tô đã chỉ cho thực hành pháp “ Cải Tướng Số ” để cứu mạng Babu. Còn nhiều pháp học chưa từng hiển lộ trong thời gian qua, từ từ tôi sẽ truyền lại cho hai ông và Babu.
Vượt qua vài ngọn đồi là đến một thung lũng màu mỡ, xanh tươi nằm dọc theo con suối, vùng đất rộng lớn này thuộc gia đình Babu. Nếu không nhìn thấy tận mắt chẳng ai có thể hình dung giữa nơi núi đồi trùng điệp của dãy nói Tuyết sơn này lại có một trang trại đẹp đẽ như vậy.
Ông nội của Babu thuộc dòng dõi quý tộc, sau một cuộc chinh chiến chẳng rõ vì sao phải bỏ về vùng đất này. Ông và cha mẹ Babu sống kín đáo, chưa lần nào thổ lộ về lai lịch dòng tộc của mình, Babu cũng không hỏi tới. Babu trước còn thấy ông đi khắp nơi dưới sắc áo thương buôn.
Nay ông đã nhiều tuổi, cha mẹ Babu tiếp nối công việc, thường xuyên vắng nhà, đi mua đi bán gì Babu cũng không rõ, Babu được một tay ông nội thương yêu chăm sóc.
Gia đình Babu đã xem đạo sư như người trong nhà vì đã một lần cứu giúp Babu vượt thoát một đại nạn và đã nhiều lần ghé qua chỉ dạy Babu tu học.
Ổn định việc ăn nghỉ xong, đạo sư kể cho Spal và Alen nghe cơ duyên quen biết với Babu :
- Mấy năm trước Babu thật hư hỏng, ăn chơi trác táng, thường vắng nhà, lần ra thị trấn gần đó tụ họp bạn bè, rượu chè say sưa. Mọi người rất ngạc nhiên không biết vì sao ông nội và cha mẹ của Babu đã không rầy la hay khuyên nhủ gì cả, ngược lại, còn cho thêm tiền bạc, còn tỏ lòng thương yêu Babu nhiều hơn nữa.
- Ba năm trước tôi đi ngang qua đây tình cờ quen biết Babu, cũng như lần này tình cờ gặp hai ông vậy. Nhưng chuyện gặp Babu có nhiều éo le, chẳng có chút vui vẻ gì. Hôm đó, tôi đang ngồi nghỉ chân bên vệ đường thì thấy một chàng trai say mèm, té ngã không đứng lên được, cách chỗ tôi ngồi không xa.
Babu ngày đó tệ hại như vậy !
Đạo sư kể tiếp :
- Tôi tới xem, nhìn tướng trạng thì chẳng phải người nghèo hèn, tệ hại nhưng thần sắc thì quá ư u ám. Tôi cho anh ta uống một ngụm nước cùng một viên thuốc giải rượu. Cầm tay Babu trước là xem mạch sau nhìn chỉ tay. Chỉ tay mờ nhạt, đường đời thì yểu mệnh hiện rõ toàn thân.
Một lúc sau tỉnh lại tôi hỏi Babu có biết mình đã gần hết đời, sắp tiệt mạng rồi chăng ? Babu nói biết, cha mẹ anh ta đã mời nhiều vị thầy tướng số đến xem và thỉnh nhiều thầy pháp thuật tới cứu giúp giải nạn, nhưng kết quả hư thực ra sao thì không ai có thể rõ biết được, khiến Babu lo âu, buồn bực chẳng còn biết làm gì hơn là rượu chè say sưa.
Cha mẹ và ông của Babu vì nghĩ con cháu mình chẳng còn sống được bao lâu nên thật thương xót, dù Babu có làm gì cũng giúp cho được toại ý. Chính vì vậy làm cho mạng sống Babu càng ngắn thêm đi.
Tôi nói Babu đưa tôi về nhà cha mẹ, tôi nói rõ ý định muốn giúp Babu kéo dài thêm tuổi thọ. Cha mẹ Babu nghe nói có thể giúp được thì vô cùng mừng rỡ và hỏi ngay là phải đền đáp bao nhiêu vàng bạc.
Tôi cười bảo :
- Tôi chỉ giúp thôi, xưa nay chưa lấy của ai một đồng nào, còn cho ra giúp những người nghèo khó vì tôi rất giàu, có nhiều tài sản, bạc vàng thì không thiếu.
Lúc bấy giờ cha mẹ Babu vội sụp xuống lạy tạ và nói :
- Xưa nay bao người tới đây nói giúp chúng tôi tiền vàng đền đáp trọng hậu nhưng chúng tôi thật không có hy vọng gì. Nay ông hứa giúp, đã không nhận nghĩa ơn, tỏ rõ là người cao trọng, chúng tôi biết thật ông là người có đạo hạnh cao thâm, thần thông diệu dụng nên mới làm được chuyện cứu giúp đời như thế, chúng tôi quá vui mừng xin lạy tạ ơn.
Tôi chân thành nói :
- Ông bà đừng nghĩ tôi đạo hạnh cao thâm, có thần thông quảng đại gì, tôi chỉ biết cách để giải ách nạn thôi. Tôi có thể giúp phương cách cho người yểu số kéo dài thêm tuổi thọ, người nghèo hèn sẽ trở nên giàu có thánh thiện. Những việc như vậy thật không có công lao gì to lớn cả, chỉ là hướng dẫn phương cách, còn việc giải nạn là chuyện của con ông bà, tự nó phải làm đúng lời chỉ dạy, làm để tự cứu mình. Tôi chẳng xen vào được.
Spal và Alen tới đây cũng thật sự ngạc nhiên, Alen nói :
- Đạo sư nói không lấy tiền thì tôi hiểu ý tốt giúp người của đạo sư, nhưng đã nói cứu chữa mà không có công lao, không có thần lực gì trong đó thì thật tình tôi không hiểu được, xin đạo sư giải thích rõ cho.
Đạo sư ôn tồn nói :
- Tôi nói như vầy thì các ông tự khắc hiểu. Ví như hai ông đây muốn khỏe mạnh, có bắp thị nở nang, tôi tới giúp, đưa cho hai ông một tập sách trong đó chỉ rõ phương cách tập luyện, các ông nhận tập sách rồi ra sức tập luyện theo sách hướng dẫn, có được ít được nhiều là do công sức của hai ông, tôi chẳng tham dự gì cho cơ thân hai ông được. Phương cách tôi giúp Babu cũng y như vậy, có phương cách rồi thì phải ra sức mà thực hành, làm nhiều được nhiều, làm ít được ít, không làm thì không được gì cả. Tôi không xen vào được.
Spal lặng lẽ nghe, hiểu ý đạo sư nên nói :
- Đạo sư nói như vậy có nghĩa là phương cách giúp con người kéo dài tuổi thọ cũng thực tiễn, khoa học như cách chỉ dạy tập thể dục vậy phải không ?
Đạo sư cười vui nói :
- Đúng như vậy, từ khi gặp các ông nói chuyện tu học cũng đều thực tiễn, khoa học. Tôi chỉ dạy rồi, ai có làm thì được, người dù ngu mê nếu làm đúng như vậy thì cũng được kết quả như vậy, không chịu làm thì dù tôi có thần thông đi nữa cũng đứng ngoài chịu thôi, không xen vào được.
Spal sững sờ nhìn sư Thiện Tôn :
- Đạo sư nói làm tôi nhớ ra, có lần tôi đọc một bài kệ tán thán Đức Phật Thích Ca dạy đạo thực tiễn và khoa học, nay tôi mới hiểu ra là thật có như vậy.
Sư Thiện Tôn cười nói :
- Đúng như vậy, ai hiểu được như vậy là nắm được mấu chốt tu học, không còn lung linh, tưởng tượng chuyện huyền hoặc thì mới tiến bộ được. Tu hành là hai từ nói lên cái thực tiễn học biết rồi phải thực hành, chỉ mê tin, lo mơ tưởng thì chỉ nhận được kết quả là mộng, là mơ mà thôi. Có thực tế Hành thì mới gọi là Tu được.
Spal vui thích không cùng reo lên :
- Đạo sư quả là tuyệt vời ! Sung sướng, sung sướng quá !
Alen chưa biết chuyện gì hỏi :
- Cái gì sung sướng, bạn nói cho tôi biết được không ?
Spal quay qua Alen trêu chọc :
- Vui qua, thích quá nhưng không nói, không nói. Cái sung sướng của tôi nói ra bạn có thể sung sướng được ư ? Không nói, không nói !
Đao sư nhìn Spal cười nói :
- Ông quả là người sáng trí, nghe là biết, là hiểu và có ứng dụng tức thì, ông sẽ là một người Thầy giỏi sau này.
Nghe đạo sư khen ngợi Spal như vậy, Alen cụt hứng nói :
- Không nói thì thôi, Không hỏi, không hỏi !
Spal quay qua Alen cười nói :
- Bạn đừng hờn mát như thế !
Alen cười với Spal :
- Tôi nào có chút hờn giận, chỉ vì trong lòng tôi cũng đang có cái vui sướng chẳng biết có cùng ý như bạn không nên mới hỏi thôi.
Spal hỏi ngay :
- Vậy bạn đang vui sướng về việc gì ?
Alen cười đáp trả :
- Vui sướng quá ! Không nói, không nói, cái vui sướng của tôi nói ra bạn có vui sướng được ư ? Không nói, không nói !
Hai người đáp trả nhau vui thú vị như vậy làm chàng thanh niên và đạo sư cũng vui cười theo.
Alen vui thích nhìn sư Thiện Tôn nói:
- Xưa nay tôi chỉ nghe nói khoa bói toán chiêm tinh, coi tay coi tướng. Đây là lần đầu nghe đạo sư nói tới khoa giải mệnh số, cải đổi yểu số, kéo dài tuổi thọ lại còn làm cho một người có thể trở nên giàu có, chẳng là việc vui sướng nhất đời sao ! Đó cũng là niềm vui, là mơ ước của mọi người nào chỉ có riêng tôi. Xin đạo sư vui lòng nói cho anh em chúng tôi hiểu rõ hơn được không ?
Đạo sư vui cười nói :
- Tại sao không nhỉ ! Khi một người không có mưu cầu gì ở phía sau thì chẳng có gì không thật và chẳng che giấu việc gì ngoại trừ việc đó có thể gây tai hại cho mọi người nếu không được hướng dẫn cẩn trọng.
- Tôi sẽ nói cho hai ông biết về hai pháp học mà xưa nay chưa từng được bày ra trên thế gian này đó là “ CẢI TƯỚNG SỐ PHÁP và LỢI DANH PHÁP ”. Các ông hãy lặng lẽ lắng nghe.

13. CẢI TƯỚNG SỐ PHÁP
Đạo sư nói tổng quát về Cải tướng số pháp, giúp cho Alen cùng Spal có cái nhìn bao quát, thực tiễn và khoa học :
- Một người mới sanh ra đời cũng như người dọn qua một căn nhà mới. Tài sản gồm những đồ vật bên nhà cũ mang sang, giàu sang hay nghèo hèn cũng chỉ có bấy nhiêu. Nay người này phải tự lực tạo dựng, làm cho tốt đẹp thêm lên hay tệ hại hơn là do ở hiện tại làm lụng, tập luyện cho có thêm những thứ tốt lành, ắt hẳn sẽ có ngày khánh kiệt.
- Căn mệnh của một con người cũng như vậy, tài sản mang theo qua kiếp sống mới là toàn bộ nghiệp quả trong tiền kiếp. Không ai làm gì khác được cái thực tại như vậy. Sanh ra trong gia cảnh sang giàu hay nghèo khó, bẩm chất thông minh hay khù khờ đã có ngay trước mắt, thọ mạng hay yểu mạng cũng thể hiện rõ ràng.
- Vì thế, người phương Đông thường mời những bậc minh triết đến xem giúp căn số cho một đứa trẻ vừa sinh ra đời. Chẳng khác gì người ta nhìn người dọn tới căn nhà mới là tự khắc biết thực chất người đó giàu hay nghèo vậy. Căn bệnh con người cũng tương tự như vậy, dù bẩm sinh có thọ mạng dài lâu nhưng nếu không biết bồi đắp thêm mà chỉ lo phung phí qua các việc xấu ác, tâm luôn bị tình tiền danh lợi, sân giận oán thù thôi thúc thì thọ mạng cũng chuyển thành yểu mạng. Phung phí sức lực như củi đốt lò tham dục, hết củi thì lò cũng bỏ đi.
- Thực tế hơn hãy quan sát một người bệnh, nếu kiêng cữ, được chăm sóc chu đáo và thuốc men đầy đủ thì bệnh chóng khỏi, ngược lại, nếu chẳng biết làm gì cả, bệnh sẽ nặng hơn, tất phải vong mạng. Mọi chuyện đều thực tiễn và rõ ràng như vậy.
- Cải tướng số pháp cũng dụng cái thực tiễn, khoa học như vậy. Biết rõ những việc xấu ác sẽ kéo theo tâm tham lam, ái dục, oán thù, giận dữ, làm suy tàn cơ thân, làm mòn dần tuổi thọ. Muốn chuyển đổi cho tốt đẹp hơn thì phải xa rời xấu ác, tâm an tất thân được an, như người bệnh khỏe lại, nay lo tập thể dục, bồi bổ thân thể tất sẽ tráng kiện dần lên. Một phương cách rất khoa học chứ chẳng phải dụng những trò phù phép, huyền hoặc mà thực chất chẳng ai có thể biết tốt xấu ra sao.
- Bệnh tật tại thân, căn bệnh tại tâm, thân bệnh hay tâm bệnh cũng cùng phương cách đối trị, xa rời mọi thứ xấu ác và tăng cường các điều tốt lành, thực tế chẳng có điều gì huyền hoặc cả !
Đạo sư nói với Spal và Alen :
- Mọi chuyện đối trị cho tâm, tôi đã viết thành một tập Cải tướng số pháp, Babu theo đó thực hành, kiên trì tập luyện nên đạt được kết quả tốt đẹp là chuyện đương nhiên.
Alen suy nghĩ một chút rồi hỏi :
- Như hiện tại nhiều người thân tâm đang tốt lành, vì sao đột ngột bị tai nạn hay bạo bệnh mà mất. Đó là tự nhiên hay có căn do gì mà một người thấy đang khỏe mạnh tức thì chuyển thành yểu mạng, xin đạo sư nói rõ cho biết được không?
Đạo sư nói :
- Ví như Babu đây, đang là yểu mạng, nhờ thực hành theo Cải tướng số pháp trở nên thọ mạng cũng nào phải tự nhiên mà được như vậy. Nói như vậy để các ông thấy trong vòng trời này không có việc gì, không có điều gì nói là nó tự nhiên như vậy được. Vòng trời này có tên là vòng trời Nhân quả, trong đó mọi thứ đều do một Nhân kết hợp với một Duyên tạo ra một thành quả, vì thế còn gọi là vòng trời Duyên hợp. Chính cái Duyên hợp này là chìa khóa, là mấu chốt giúp cải đổi căn mệnh chứ chẳng có gì lạ cả.
Đạo sư nêu một ví dụ cho dễ hiểu :
- Ví như một hạt lúa, không có thêm một duyên gì nữa nó mãi mãi vẫn là hạt lúa. Nay có thêm đất, thêm nước, có ánh nắng mặt trời, hạt lúa có thêm các duyên mới như vậy đưa đến kết quả sanh ra mầm lúa, phát triển dần thành cây lúa rồi trổ bông. Nhân cùng Duyên hợp phát sanh Quả như thế, không một thứ gì trong trời đất ra ngoài lý đó được.
- Ví như một người đang khỏe mạnh, thân an, tâm an, bỗng phát bệnh ung thư và qua đời, người ta cố truy tìm căn do, dù không thật biết vì sao nhưng rõ ràng khoa học cũng không kết luận là tự nhiên có như vậy.
- Khoa học hiện đại ngày nay cũng luôn đặt sự nghiên cứu, xét nghiệm, truy tìm căn do cho mọi hiện tượng hữu hình hay vô hình trên căn bản nhân quả duyên hợp, dù chưa tìm ra được cũng không chịu dừng lại với kết luận là nó tự nhiên có như vậy.
Đạo sư tóm ý :
- Chuyện bên ngoài cũng vậy, trong thân cũng vậy, sáng biết rồi, xa rời các điều xấu ác, tự khắc tội tù, phiền não không có, thêm các duyên tốt lành để có quả an vui. Chẳng khác người làm vườn nhổ bỏ cỏ dại, gai góc, trồng thêm vào bông hoa, cây trái, tự khắc vườn cây xinh đẹp, có quả ngọt ngon. Nào phải chuyện gì lung linh hay huyền hoặc, ai có làm thì sẽ có thành quả, không làm thì không thể có được, nếu ngồi van xin, mơ mộng thì chỉ nhận được quả mộng mơ, đó là chuyện thực tiễn trước mắt đâu thể nói khác đi được.
Đạo sư nói với Spal và Alen :
- Những ai đã biết, nếu quyết tâm có thể tạo duyên mới tốt lành để chuyển đổi cái xấu thành cái tốt, đều có thể thành tựu như ý. Phương cách chuyển đổi yểu mệnh trở thành thọ mệnh về căn bản là như thế. Nói rộng ra chẳng riêng chuyện mệnh số, tất cả mọi việc trên thế gian cùng một lý như vậy cả. Tõ biết luật Nhân quả và Duyên hợp rồi là có thể dụng để biến đổi mọi thứ theo ý muốn, không khác gì một nhà huyễn thuật.
Đạo sư nói rõ thêm :
- Người không đủ căn cơ, sáng biết thì phải tuần tự qua các bước, xa rời các việc xấu ác, làm các việc phước thiện chính là tạo duyên tốt lành cho cơ thân và căn mệnh của mình.
- Muốn chuyển đổi từ nghèo khó trở thành giàu sang thế tục hay sang giàu thánh thiện đều dụng phương cách thực tiễn, khoa học như vậy.
Alen vội hỏi :
- Giàu có thì như nhau, vì sao đạo sư chia làm hai thứ, giàu thế tục và giàu thánh thiện, như vậy có sự khác biệt ra sao xin đạo sư vui lòng giải thích cho.
Đạo sư đáp :
- Nói về giàu nghèo thì sự giàu sang của thế tục thường tình có đó, mất đó vì bản chất nó không chân thật nên không bền vững. Để thấu hiểu thế nào là giàu sang thánh thiện thì các ông phải lặng lẽ nghe và sẽ biết tại sao giàu sang thánh thiện không chỉ bền chắc trong đời này mà còn lưu truyền thọ hưởng đến kiếp sau và tới vô lượng kiếp nữa.

14. LỢI DANH PHÁP
Đạo sư giảng cho Spal, Alen và Babu về Lợi danh pháp :
- Trong cuộc đời này, cái nghèo khó, túng quẫn là cái thôi thúc làm cho con người chịu đủ mọi điều khốn khó. Chính vì vậy, ai cũng muốn mình được khá giả hơn để đỡ cực nhọc trong cuộc sống. Giàu có luôn là mơ ước của một đời người. Nay có phương cách chỉ dạy cho mọi người trở nên giàu có thì không có gì quí báu cho bằng.
- Người đời ham muốn giàu sang có thể làm chủ mọi chuyện kể cả việc xấu ác, hèn hạ. Các việc có thể bị tội tù, chết chóc, họ cũng không từ chỉ vì mơ ước được giàu sang. Muốn mau chóng được giàu có, họ tìm học mọi phương cách làm giàu đa phần là những chuyện làm gian ác, giả dối, khiến cho mọi người nhìn người giàu sang với thái độ ít nhiều không có thiện cảm. Mọi người thường tỏ ra e dè với người giàu sang mặc dù ai cũng có ý thích được trở nên sang giàu như vậy. Đó là nói sự giàu sang thường phàm thế tục.
- Nay tôi nói tới giàu sang thánh thiện. Trong đời, hẳn các ông cũng đã từng biết được nhiều người giàu sang nhưng tâm tánh thật hiền hòa, từ ái, thương người, giúp đời … Điển hình là cư sĩ Duy Ma Cật. Những ai có đọc kinh sách Phật giáo đều biết chuyện giàu sang tột độ của cư sĩ Duy Ma Cật, người giàu sang tột cùng đó lại có tư cách tốt lành, giàu lòng từ ái, cứu giúp mọi người. Đó là cái giàu sang thánh thiện.
Đạo sư kể cho Babu, Alen và Spal những lần Phật Thích Ca chỉ dạy cho cư sĩ thời đó phương cách để trở nên giàu có thánh thiện :
- Một cư sĩ gặp Phật Thích Ca, than thở về cái nghèo đói của mình, rồi xin Phật một phương cách để khỏi đói nghèo. Phật nhìn căn cơ người cư sĩ nghèo khó, dốt nát đó rồi nói: “ Nay ta chỉ cho ngươi một phương cách thật dễ nhớ, dễ làm, ai làm đúng như vậy cũng đều thành tựu được, ngươi hãy lắng nghe, ghi nhớ và thực hành cho được như vậy thì nhà ngươi có muốn đói, muốn nghèo cũng không được!”
Lúc bấy giờ tất cả chúng tăng đi cùng với Phật Thích Ca đều ngạc nhiên không ít, vì người cư sĩ vừa nghèo khó, vừa dốt nát như vậy, thật tình khó dụng phương cách gì để chỉ cho cái đủ ăn, chứ chưa dám nói thoát nghèo cho được. Tất cả đều yên lặng cố ý lắng nghe xem Phật chỉ dạy điều gì, chắc phải là một diệu pháp.
Phật Thích Ca nói thật ngắn gọn : “ Hãy ghi nhớ, nhà ngươi trở về sống thế nào cho cái mặt nhà ngươi ai cũng mến cũng thương, được như thế thì nhà ngươi có muốn nghèo muốn đói cũng không thể được ! ”
Đạo sư nói :
- Cơ duyên gặp người cư sĩ thưa hỏi như vậy nên Phật muốn chỉ dạy chung cho tất cả chúng sanh đang đói nghèo, chứ chẳng phải nói riêng cho người cư sĩ kia. Phật trao cho một mấu chốt, một chìa khóa mở cửa thiện căn, sống chân thật, hiền hòa, từ ái là căn bản để mọi người đều mến thương, một người như thế sống nơi nào cũng không thể đói nghèo được.
Babu thắc mắc :
- Con chưa thật biết vì sao chỉ làm cho cái mặt mình ai cũng ưa mến thì muốn nghèo đói cũng không được, Phật nói nghe thật thú vị nhưng con chưa thông tỏ chỗ này, xin đạo sư giúp giải thích cho rõ.
Đạo sư nói :
- Chính ngươi cùng mọi người nghe câu nói quá đơn giản như vậy cũng không thật biết phải làm sao để cho cái mặt mình ai cũng mến ưa, cũng không có quyết tâm làm cho được như vậy nên nghèo đói vẫn bám theo mãi.
- Một người sống thật hiền hòa, lời nói êm dịu, dễ nghe, không nói lời phách lối, trịch thượng, không nói dối, không nói đâm thọc, không bêu riếu tật xấu của người khác, không tà dâm, không trộm cắp, không rượu chè, không cờ bạc là người ai cũng ưa tin nhưng mến thương thì chưa có. Điều quan trọng tất yếu là phải “ Chân thật tâm, có lòng từ ái thương người ” là tròn vẹn cho cái mặt của mình ai cũng “mến thương”. Người như vậy quả tình muốn đói nghèo cũng không thể được !
Đạo sư nói thêm :
- Người xưa hay nói “ Có đức không sức mà ăn ” cũng là chỉ dạy cách để không bị đói nghèo. Mọi người cũng hiểu biết chung chung như vậy, không rõ biết đức là cái gì, phải làm sao cho có đức nên cũng nghe, nói, cho vui vui như vậy, rồi đói vẫn đói, nghèo vẫn đeo bám mãi không rời.
Phần đông đều hiểu được những câu nói như vậy nhưng không có quyết tâm để làm cho bằng được. Người có quyết tâm làm cho được như vậy trong thế gian này có thể đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Con người thường thích học biết cho vui vui vậy thôi. Không chịu quán xét, không thực hành là căn do chính yếu làm con người ngu mê, đói nghèo mãi mãi !
Đạo sư vui vui nói :
- Ví như người đã thực hành cho được “ Cái mặt mình ai cũng ưa đến ”, dẫu có trốn ở nơi nào cũng bị người đời tin thương, ưa mến tìm cho bằng được để nhờ cậy coi sóc tài sản, để phát triển việc làm ăn, chỉ riêng số người lợi dụng thôi cũng đã không thể đói nghèo rồi. Nay có thêm những người tốt giúp sức nữa, thì sao không trở nên giàu có cho được ! Đã giàu rồi lại có chân thật tâm và từ ái, thì ai cũng muốn hợp tác làm ăn nên cái giàu sẽ phát triển không ngưng dứt cho đến cực kỳ giàu có. Đó là nói về cái giàu thánh thiện, cái giàu nhờ sự chân thật, đạo đức và từ ái …
Babu cười vui vì ngộ được việc làm giàu sang mà thánh thiện, nhưng vẫn còn chút suy tư nên hỏi đạo sư:
- Con đã hiểu được cách làm giàu thánh thiện, sự giàu có vững bền, phát triển sang giàu không bao giờ ngưng dứt. Tuy nhiên, đạo sư nói còn được lưu truyền đến các kiếp sau ? Nói tới kiếp sau con còn chưa thật tin chắc có hay chăng nữa, xin đạo sư giải thích rõ hơn về việc này có được không ?
Đạo sư giảng giải :
- Phương cách của Cải tướng số pháp và Lợi danh pháp tôi vừa tóm lược các mấu chốt như vậy để các ông thấy rõ tính khoa học, thực tiễn, dựa trên căn bản biết dụng “ Luật Nhân quả và Nhân Duyên hòa hợp ”, không phải chuyện gì huyền hoặc, mờ mịt cả. Kiếp này giàu sang lại thêm thánh thiện, Nhân tốt như vậy quả ngọt kiếp sau ắt phải tốt đẹp bội phần.
- Để một người thật tín tâm tu học thì phải đưa người đó đối diện với luân hồi, thật biết các kiếp sau và tiếp nối kiếp số như vậy đến vô tận. Tôi sẽ đưa các ông tới chỗ như vậy chẳng có gì khó khăn cả, tự khắc các ông biết mà thực tiễn giúp cho cả chúng sanh sau này nữa !

15. NHÂN QUẢ LUÂN HỒI
Đạo sư nhắc lại về luân hồi và nhân quả :
- Để một người thật sự tín tâm tu học thì phải đưa người đó đối diện với luân hồi, rõ biết sẽ phải tiếp nối đời sống của mình ở kiếp sau và tiếp nối như vậy cho đến vô lượng kiếp nữa. Hiểu rõ rồi người ta sẽ cố gắng cải thiện đời mình cho tốt lành hơn, biết lo sợ những việc làm xấu ác hiện tại sẽ là nhân sanh quả báo tệ hại cho các kiếp sau của mình. Hiểu rõ có luân hồi, tự khắc con người biết không ai có thể vượt qua được luật Nhân quả của trời đất. Luân hồi nhân quả là định luật công minh, hợp lý của trời đất đã tồn tại từ vô lượng kiếp cho tới nay :
Babu cung kính hỏi đạo sư :
- Phật Thích Ca đã nói thế nào về luân hồi nhân quả, ai đã thật biết có những việc như vậy, xin đạo sư giảng nói rõ cho.
Đạo sư ôn tồn bảo :
- Chính Phật Thích Ca khi đạt đạo đã thấy biết rõ sự luân hồi của chúng sanh và truyền nối như vậy đến vô lượng kiếp. Nếu kiếp này làm điều xấu xa, tội ác, nhân ác đã gieo đi thì sẽ sanh nghiệp quả phiền não, khốn khổ cho bao kiếp sau và không ai có thể trốn chạy hay né tránh nơi nào được cả.
- Phật đã nói: “ Có ta hay không có ta thì thiên hà vũ trụ này cũng biến chuyển thường hằng như vậy cho tới vô tận, dù núi có tan, biển có cạn đi, thiên hà vũ trụ có bị hủy diệt, nghiệp báo cũng đeo bám tới vô tận kiếp … ”
Đạo sư nói tiếp :
- Phật Thích Ca biết rõ do luân hồi nhân quả nên chúng sanh phải chịu khổ đau nối tiếp hằng sa kiếp sống, chồng chất mãi thống khổ không thể nào kể hết. Vì xót thương chúng sanh, Phật đã quyết định trụ lại thế gian để giảng nói, chỉ dạy cho biết thế nào là sanh tử luân hồi, nguồn gốc căn do gì mà con người phải bị luân hồi sanh tử. Phật chỉ dạy cho phương cách để bớt khổ đau, bớt phiền não, biết gieo nhân tốt lành để có quả an vui, dạy tu tập cải đổi số kiếp khổ đau, dần tiến tới chỗ an lành tu rốt ráo đạt đạo, vượt qua khỏi luân hồi sanh tử mới nói là giải thoát được.
- Nếu chẳng có luân hồi thì con người hiện tại dù có khổ đau gì đi nữa khi chết là hết, chẳng có chuyện gì phải lo nữa, Phật đâu phải nhọc công dạy đạo, tu học chi cho nhọc mệt. Phật dụng mọi phương cách, mọi phương tiện để giảng nói sao cho chúng sanh hiểu hết về sanh tử luân hồi, về nhân quả, chỉ dạy con đường rốt ráo giải thoát khỏi khổ đau và phiền não. Suốt 45 năm từ ngày thành đạo, với tư cách một khất sĩ không nhà rày đây mai đó trên một xứ sở nóng như thiêu đốt, đầy gió cát, thật nhiều khó khăn, cực nhọc để nói lên cái thực tế đời sống con người khổ đau như thế. Giúp chúng sanh hiểu thật rõ việc sanh tử luân hồi, hiểu được luật nhân quả, là chúng sanh có thể lần đến chỗ an vui, hạnh phúc.
Đạo sư nói tiếp :
- Nếu không có điều ấy thì Phật đâu phải nhọc công suốt 45 năm ! Nếu chẳng còn có gì sau cái chết thì nhọc lòng chi mà giảng mà dạy. Chỉ cần một chút lặng lẽ suy tư là thấy rõ Phật từ bỏ ngai vàng và giúp La Hầu La - đứa con duy nhất của mình rời bỏ điện ngọc, ngai vàng theo tu học. Không thật có những việc sanh tử luân hồi khốn khổ như vậy, không ai để con mình rời bỏ ngai vàng để sống một đời dưới cội cây cả.
- Trong đời, hai lần Phật đã quyết định từ bỏ ngai vàng, nghĩ suy một chút đã có thể rõ biết việc sanh tử luân hồi cùng việc giải thoát khỏi luân hồi sanh tử quan trọng đến ngần nào.
- Phật từng nói “Một Alahán do công phu tu tập có thể thấy biết số kiếp một con người từ 100 đến 400 ngàn kiếp, ta thì rõ thấy đến vô lượng kiếp sống của chúng sanh như vậy ”. Chính vì biết vậy nên Phật Thích Ca quyết chỉ dạy cho đệ tử nhanh chóng đạt đến Alahán. Một là làm nền tảng nối tiếp chỉ dạy cho hậu thế. Hai là để cho chúng sanh thời bấy giờ tín tâm tu học, vì đã có các vị Alahán tu đạt cái thấy biết tột cùng y như lời Phật dạy. Việc rõ ràng như vậy, quốc sử các nước thời đó đều có ghi chép cụ thể chuyện Phật Thích Ca, nào phải chuyện có thể bày vẽ mù mờ, không thật được.
- Nay trở lại chuyện thực tế các ông đây, cần phải biết làm thế nào để thấy lại cái tiền kiếp của mình, cũng chẳng phải là chuyện gì khó, Phật đã chỉ dạy rõ ràng, tôi tuần tự nói các ông nắm được mấu chốt, có thực hành sẽ có kết quả như vậy. Tôi đã nói rõ, Phật dạy những điều thực tiễn, khoa học, chẳng phải chuyện lung linh, huyền hoặc. Không phải chỉ tin nghe rồi lễ lạy, khẩn cầu, van xin mà có được.
- Khi Phật còn tại thế, chúng sanh có thân bằng quyến thuộc tu đắc Alahán, họ thật sự tín tâm khi nghe con em họ hoặc người thân tu đã đạt Alahán kể lại mọi việc tu hành thực tế đã được như vậy. Từ đó, những vị Alahán trực tiếp chỉ dạy cho những người mới vào tu tập, Phật chỉ thuyết dạy những điều mới lạ chưa từng thuyết dạy mà thôi. Cho nên, nền tảng Alahán Phật đào tạo có một sức mạnh vô song, làm mọi người thời đó tuyệt đối tín tâm theo tu học.
Đạo sư tiếp tục :
- Các ông thấy mọi việc rõ ràng như vậy, chẳng phải chuyện bàn bạc, nói tới nói lui gì cả. Nhân của việc thực hành trồng lúa thì mới có Quả lúa để ăn. Nếu biết chỉ để đó cho vui vui, không chịu thực hành, rồi lo mơ mộng, lễ lạy, van xin thì lúa cũng chẳng thể có mà ăn nữa là. Phật chưa từng dạy ai pháp khẩn cầu, van xin để có được điều gì, bởi nếu có thì phật đâu phải vất vả, nhọc mệt 45 năm dạy đạo. Lễ lạy, nguyện cầu mà có được thì thế gian này đã thành thiên đàng. Pháp nguyện cầu mà có thì tu hành làm chi cho phí công, nhọc sức.
- Nói cùng lý như vậy để các ông tỉnh giác, phải học cho rõ biết luật Nhân quả và phải lặng lẽ quay về tâm mình để học biết trong thân người, tâm thức nó vận hành ra sao, cần điều phục bằng cách nào để không khổ đau, không đói nghèo hay để rốt ráo giải thoát luân hồi sanh tử. Muốn điều gì thì phải học và phải thực hành phương cách đó thì mới thành tựu được.
Đạo sư nói:
- Muốn cuộc đời an lành, được mọi người thương mến thì phải học biết Chân thật, phải rời xa việc xấu ác như thế nào, làm lành làm phước, cứu giúp người cũng phải học để biết khởi đầu từ đâu, làm thế nào cho có phước cũng phải học thì mới biết cách thực hiện. Các việc ở bên ngoài phải học, việc tâm thức bên trong thân cũng phải học.
Đạo sư tóm ý :
- Đã thông hiểu việc tu học phải rõ ràng, thực tế như vậy. Nay muốn tu học thì phải biết tu cách gì trước, cái gì sau, cái gì là nền tảng của đời, của đạo mà ta cần phải có. Vì sao nói là nền tảng phải có ? Vì không học biết, không tu học những cái căn bản như vậy thì thân không an, tâm không an, sẽ không thành tựu được việc gì cả ! Các ông lưu ý, học thì phải học như vậy, dạy người cũng phải dạy như vậy. Các ông hãy lặng lẽ thu nhận và quán xét !

16. NỀN TẢNG ĐỜI VÀ ĐẠO - CHÂN THẬT TÂM
Đạo sư nhắc nhở Spal, Alen và Babu mấu chốt tiên quyết - CHÂN THẬT TÂM :
- Chân thật tâm là mấu chốt tiên quyết cho người đời và người tu học đạo. Chân thật tâm là căn bản cho đời sống thánh thiện, là căn bản an lành cho mọi kiếp sống, là bậc thang cho mọi vị quả. Ai cũng nghĩ tu học thì phải học cái gì cao xa chứ nói về Chân thật tâm là chuyện thật quá bình thường, quá dễ dàng, ai cũng biết cần gì phải học nữa. Chính vì nghĩ cái quá thường như vậy, không ai chịu quán xét và tu học, cả thế gian này chứ chẳng phải riêng ai, nên Chân thật tâm chẳng có, không ai thành tựu được gì cũng vì cái Chân thật tâm không có!
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Vì sao có như vậy, các ông lặng lẽ, đừng vội phán xét, so đo gì cả rồi tự khắc các ông sẽ thấy, điều nghe có vẻ vô lý như vậy lại là cái mấu chốt sống còn của người đời và cả người tu !
- Trong lòng người chưa tu học về Chân thật tâm sẽ đầy rối ren, tâm luôn loạn động, Phật ví như nước quậy mãi không chịu dừng, làm sao thấy được gì ở bên dưới. Vì không chân thật nên tâm luôn phải vận hành đối kháng với mọi thứ, có khi thật tâm, có khi dối giả, luôn xen tạp như vậy nên chẳng bao giờ được an ổn. Khi tâm chẳng yên thì tu pháp môn gì cũng là chuyện vô ích mà thôi.
Đạo sư giảng giải tiếp :
- Nay nói về người đã tu học Chân thật tâm, thường xuyên đối diện tâm ý, ý nào chẳng thật, lời nào chẳng phải, đã phạm rồi thì quyết không cho tái phạm nữa, việc gì làm không thật thì không làm nữa. Trong ngày, nơi chốn nào người tu Chân thật tâm cũng thấy biết cái nào mình đã thật, cái nào chưa thật thì quyết đoạn dứt để cho mọi thứ từ ý nghĩ tới lời nói và hành động đều trở nên chân thật cả.
- Khi đã có chân thật tâm rồi thì lòng nhẹ nhàng như vai mang đá tảng đã buôn bỏ. Chẳng còn gì giả trá để tâm phải so đo, đối kháng. Mọi thứ chẳng còn lý gì để khuấy động trong tâm nữa, nào có dẹp, có diệt gì đâu mà tâm cũng đã lắng đọng, an bình.
Đạo sư tiếp lời :
- Để giúp thêm cho người tu Chân thật tâm, người sáng biết chỉ thêm việc “ Xa rời các điều xấu ác ”. Đã Chân thật tâm thì xấu ác đã xa rời rồi, sao nay còn nói phải lo tu chỉnh việc xa rời xấu ác? Chung cuộc là như vậy, nhưng lấy mấu chốt xa rời các việc xấu ác là việc làm thực tiễn, giúp cho người tu học càng nhanh chóng thanh tịnh, là phương tiện lực giúp người tu Chân thật tâm định hướng sáng suốt, rõ ràng, không cho xen tạp tâm chân thật và tâm giả trá nữa.
Đạo sư nhắc lại :
- Tôi có nói sẽ chỉ dạy cho các ông về thiền rốt ráo và một số môn học khác nữa. Các ông đã biết được một số mấu chốt tu học, nay tôi có ý hỏi lại các ông : “ Nếu các ông chưa đối diện tâm ý được thì làm thế nào biết ý chân, ý giả vừa xuất hiện để tu học Chân thật tâm ? ”. Vì vậy, tôi nói phải lo thực hành việc đối diện tâm ý trước, bởi nếu nghe rồi chỉ để trong bụng cho vui vui thì thật chẳng lợi ích gì cả.
- Không đối diện tâm ý được thì chưa tu học Chân thật tâm được, làm sao nói tới tu thiền rốt ráo cho được, vì các pháp đều thuộc về tâm thức, không hình sắc, khó diễn đạt, khó hiểu đối với người chưa biết đối diện tâm. Ý sanh ra sao, cảm thọ như thế nào còn chưa biết được thì làm sao biết cái vận hành của tâm thức. Biết còn chưa xong thì làm sao nói diệt tận cho được !
Đạo sư nói tiếp :
- Tôi nói lại, các việc trên chỉ là pháp lý, các ông nghe hiểu rồi thì phải ra sức thực hành. Tập đối diện tâm được rồi thì quán xét tu Chân thật tâm sẽ mau chóng an tịnh thân tâm, thân tâm an tịnh rồi, vào thiền duỗi chân là thấy đạo. Nghe như là chuyện nói chơi nhưng nó thật như vậy.
- Hai pháp trên chưa thực hành cho thuần thục được thì thiền trăm năm cũng chỉ là phí công sức mà thôi ! Nói như vậy thôi chứ thiền mà chẳng có kết quả gì, vài ba tháng hay lâu hơn người ta chỉ còn đề cập đến thiền nghe cho vui vui, oai oai vậy chứ chẳng còn có chút ý muốn thiền, nói chi tới việc hành thiền.
Đạo sư nhìn Spal và Alen rồi nói :
- Ví như hai ông đây, bỏ hết mọi thứ trên thế giang để đi tìm biết về cái huyền năng của đạo. Nay hiểu tường tận rồi, tự khắc cái mống vọng lắng xuống, lặng lẽ quán xét sẽ hiểu ra mọi lý lẽ.
- Lòng từ chẳng có, Chân thật tâm chẳng tròn, thấy ai cũng khen chê, cũng ưa ghét. Tâm mống vọng thể hiện qua cung cách ứng xử hằng ngày, ra vẻ bề trên sáng biết, hống hách, nặng lời với kẻ dưới, với người sai trái, lỗi lầm. Chính vì Chân thật tâm chẳng có nên lòng từ cũng vắng bóng, chỉ còn cái sôi sục ham muốn chiếm đoạt cho được bị quả cao cả mà ai cũng tán thán. Tâm ý như thế nhìn là thấy biết, làm sao có thể được truyền trao Chân pháp.
Đạo sư giải thích cặn kẽ thêm :
- Khi Chân thật tâm tinh tấn dần lên, từ tâm phát sanh chứ chẳng phải o ép mà có được từ tâm. Chân thật tâm không có, nói từ tâm chỉ là cái tập làm từ tâm, khi làm thì có, xong việc rồi thì từ tâm cũng xong theo việc. Vì sao như vậy ?
- Chính vì Chân thật tâm không có, tâm chỉ đối kháng phát sanh ra như vậy. Người khéo nhìn sẽ thấy được sự khác biệt rõ ràng giữa người chân thật tâm và người có vẻ chân thật. Từ tâm cũng chẳng phải cái Phật bày ra để giảng dạy. Ai Chân thật tâm có rồi thì từ tâm tự có như vậy.
Đạo sư nói :
- Nay đã hiểu Chân thật tâm là nền tảng, là gốc phát sanh các thiện pháp. Mỗi chúng sanh đều sẵn có Chân thật tâm ẩn tàng, nay quyết tâm trở lại với cái chân thật của mình chứ có tạo ra cái gì mới mẻ, xa lạ đâu mà nói là tầm cầu khổ nhọc. Nói không biết cũng không được, nói biết rồi mà chưa chịu tu học để quay về cái chân thật tâm của mình thì có khác chi người không biết.
Đạo sư vạch rõ :
- Ai Cũng nghĩ mình có tu là đã tốt lành rồi, nào ngờ cái giả trá xen tạp đủ mọi thứ xấu ác còn đầy trong tâm. Thật muốn tu là phải tu từ những cái nền tảng chân thật như vậy. Nền tảng không có, trong tâm toàn những mống vọng, so kè người trên kẻ dưới. Khi thấy mình còn như vậy là biết Chân thật tâm mình quá cạn mỏng, hãy sớm trở lại lo cho tâm mình, rời xa mọi điều xấu ác, Chân thật tâm hoát nhiên tròn đủ.
Đạo sư nói thực tế :
- Cũng ý là khéo hỏi người đời, người tu : “Có thật muốn tu không ? Có thật quyết tâm tu không ?” Đã quyết tâm thì phải thực tiễn quán xét con đường mình đang tu học, thiếu cái gì thêm cái đó, sai chỗ nào chỉnh sử chỗ đó. Mình không tự lo những cái như vậy thì ai biết đâu để chỉ dạy, để lo cho mình được đây !

17. TRỰC DIỆN VỚI TÂM - ĐỐI DIỆN ĐƯỢC LÀ TRỊ ĐƯỢC
Khi Spal với Alen xuống núi chưa biết phải khởi đầu học ra sao, không ngờ gặp được đạo sư Thiện Tôn chỉ dạy cặn kẽ. Hữu duyên quen biết với Babu, có nơi ăn ở khang trang, tiện nghi, thuận lợi cho việc đạo sư chỉ dạy. Spal và Alen không thể hình dung mình có được cái diễm phúc lớn lao như thế.
Bao nhiêu cảnh đẹp hùng vĩ xung quanh cũng không sánh được cái vui, cái đẹp trong lòng, nhìn thấy được ánh đạo vàng cũng êm đềm, nhẹ nhàng như những ánh mây trắng che lấp cả núi đồi và như che chắn cả những cảnh thống khổ của cuộc đời. Cách dạy đạo thực tiễn, khoa học của đạo sư càng khiến họ tin tưởng mãnh liệt vào con đường đạo, càng quyết tâm theo tu học.
Không gian tĩnh lặng, thời gian như ngừng trôi trợ giúp cho họ an tịnh để quán xét tâm ý mình, truy tìm cho hết các sự việc xấu ác trong đời đã phạm phải, họ quyết một lần thanh lọc mọi sai trái, lỗi lầm của đời mình, quyết không tái phạm vì họ đã biết Chân thật tâm chẳng có thì tu học cũng chẳng thể thành tựu được gì, chỉ uổng phí một đời mà thôi.
Này xưa, họ thích gặp nhau để bàn bạc chuyện trò, nay thì khác hẳn, họ muốn tự mình lặng lẽ đối diện với tâm ý mình, tìm nơi thanh vắng quán xét để biết thật rõ xem còn chuyện gì vướng mắc, tình tiền hay danh lợi, tham sân si, cái gì thấy rõ nét nhất là cái nặng nề nhất cần tỉnh giác đem ra để quán xét rồi sám hồi như một quan tòa xét xử công minh.
Nhớ lời đạo sư thường nhắc nhở: “ Không một lần trực diện với tâm ý mình, một ngày chưa quán xét xong, trăm năm đạo khó thành ! ”
Đạo sư đã chỉ dạy, thấy mọi người hoạt động tưởng là mọi chuyện làm chỉ ở bên ngoài nhưng thật chất ở trong tâm đã có phán quyết cả rồi, không có lệnh nói miệng không mở ra được, tâm chưa duyệt xét đi thì chân chẳng thể bước đi được. Mọi sự việc đều từ tâm ý tạo ra cả. Cái tâm rõ ràng có một quyền hạn vô cùng to lớn đối với đời sống con người như vậy nên cần phải rõ biết về nó, phải trực diện với nó.
Phải trực diện với tâm ý của mình. Phải thực hành cho bằng được. Đối diện tâm, đối diện được là trị được, nghĩa của chữ Đối Trị quả thật là như vậy.
Người ta hay ví von “ Đối diện tâm như người giữ cổng thành. Kiểm soát được hay không được kẻ xấu người tốt qua lại, thành còn hay mất là do người giữ cổng thành vậy ! ”
Tâm là nền tảng của con người, Chân thật tâm là cái chính yếu của đời người. Lòng thanh tịnh họ thu nhận, học biết và thực hành trọn vẹn các pháp tu mà đạo sư chỉ dạy, không thể sai sót.
Babu như người chết đã được đạo sư cứu mạng nên thật tín tâm, lời đạo sư nói ra là một lệnh truyền phải làm cho kỳ được, cho nên việc tu học cũng thật thuận lợi. Hai nhà khoa học tiến tới đâu thì Babu cũng theo sát tới đó.
Đạo sư thật sự hài lòng với ba người bạn mới, xét căn cơ họ có thể thành tựu Chân pháp cùng các pháp học độ sanh khác. Tâm nguyện truyền nối của một vị thầy làm được như vậy cũng là tròn tận rồi. Đạo sư để Spal, Alen và Babu có rộng thời gian thực hành rèn luyện đối diện tâm ý cùng thâm nhập cho được Chân thật tâm pháp, rồi sẽ triển khai cụ thể thiền rốt ráo dạt đạo quả cùng các pháp hành độ sanh khác.

18. DỤNG PHÁP CHUYỂN TÂM, ÁC QUỶ THÀNH BỒ TÁT
Babu có thắc mắc nên hỏi đạo sư :
- Đạo sư đã chỉ dạy phương cách đối diện tâm, quán xét tâm. Qua thực tập con thấy vô cùng thích thú, ngồi lặng lẽ chờ đợi từng ý xuất hiện như mèo rình chuột, không cho ý nào chạy qua mà không nhận ra, chỉ sau vài lần tập luyện là con đã làm được. Đạo sư dạy về Chân thật tâm, tâm ý xấu ác, sai trái có xuất hiện, không chạy theo nó, không tác ý gì thêm thì nó tự lặng đi. Vì muốn xa rời mọi điều xấu ác, nên ý gì xấu ác để nó tự lặng đi, con cảm nhận thật nhẹ nhàng, thư thái. Nhưng con có thắc mắc, đạo sư không dạy phải có tâm gì tốt đẹp để thay thế tâm xấu ác, để tâm xấu mất hẳn đi, chỉ còn tâm tánh tốt lành, từ đó chẳng còn lo mình có ý nghĩ xấu nữa, như vậy có phải là tốt lắm không ?
Đạo sư lắc đầu bảo :
- Không ai làm được chuyện loại bỏ tâm xấu hay thay thế nó bằng tâm tốt lành, cũng như không thể diệt tâm xấu để còn lại tâm tốt lành, không thể làm được những chuyện như vậy ! Lý gì ta nói như vậy ? Các ông lặng lẽ nghe cho rõ biết.
Đạo sư dạy :
- Tâm ý tốt xấu ở trong tâm ta cũng ví như hằng sa con người hiện trong vũ trụ này, có tốt có xấu như vậy. Con người có hình có dạng mà ngươi muốn diệt người xấu chỉ còn người tốt đã là chuyện không thể làm được rồi, nay tâm ý nó không hình, không dạng, không biết nó ở đâu và khi nào thì nó xuất hiện, thấy biết còn không thể, thì làm sao nói dẹp nó diệt cho được !
Đạo sư giảng nói :
- Cái gì đã thấy biết rồi thì dòng tâm thức đã lưu trữ, nghiệp thiện hay ác cũng cùng một lý như vậy. Phật từng thuyết “ Biển có cạn, núi có tan, thiên hà vũ trụ có bị hủy diệt, nghiệp báo vẫn theo ta đến vô lượng kiếp …”. Chính vì chẳng có gì có thể hủy diệt được nó, chẳng thể lấy cái này chuyển thành cái kia được nên chúng ta mới phải học phương cách đối diện tâm để nhận biết khi ý sanh ra, nếu xấu ác thì lờ đi, chẳng vướng bận, nó sẽ tự qua đi. Chẳng khác chi trong đời sống, kẻ quen người lạ đi ngang qua cửa nhà của ta vậy, người xấu, người tốt đều nhận diện được. Biết được người xấu ác thì không mời chào, thấy người tốt có vui có thuận thì đón mời, nhà cửa tất sẽ được an vui.
Đạo sư nhìn Babu, Spal và Alen nói :
- Phật giả dụ Tàng thức là cái kho lưu trữ dòng tâm thức của hiện kiếp, ví như kho chứa hàng hóa của thế gian vậy, hàng hóa vào kho có xấu, tốt, thiện, ác v.v… Nếu kho chứa toàn đồ gian trá, xấu ác ắt sẽ có ngày vị vua quan, chính quyền xét bắt, kết quả bị tội tù, phiền não không thể tránh khỏi. Nay kho chứa toàn những thứ tốt lành, thánh thiện tất sẽ được an ổn và được ngợi khen. Lẽ thường tình là như vậy.
- Nếu ta không nhận vào cái xấu ác, chỉ dung nạp cái chân thật, tốt lành thì những cái tốt lành nhiều dần, lớn dần lên che chắn, đè nén cái xấu ác, không cho nó khởi động được chứ chẳng phải thay thế hay dẹp diệt gì cả. Ví như một đứa trẻ đó, ta cho chơi với nhóm bạn tốt, trẻ quen dần với cái tốt lành chứ chẳng phải dẹp diệt gì trong tâm ý trẻ được.
Đạo sư nói tiếp :
- Ví như ta giải thích cho một người tham lam biết, tham lam sẽ làm cho con người trở nên xấu xa, không ai ưa mến và sẽ đi dần vào con đường gian ác, khổ phiền, tù tội, chẳng khác gì địa ngục. Người đó hiểu ra và quyết tâm xa rời xấu ác, tâm xấu ác dù có khởi lên cũng không theo, không làm chuyện xấu ác nữa, là đã trở nên tốt lành, thiện căn tròn đủ.
- Trước kia, một người có tâm xấu ác, hình tướng hung dữ như quỷ như ma. Nay đã biết lỗi, rời xa xấu ác, hình tướng cũng biến đổi theo, trở nên hiền hòa, dễ mến, có tâm tánh tốt lành, từ ái, biết cứu giúp mọi người thì có khác chi một vị Bồ tát. Dù là quỷ hay ma, chỉ cần một niệm quyết tâm rời xa mọi điều xấu ác thì đều được thành tựu chứ chẳng phải khó khăn dẹp diệt tội lỗi gì cả. Tướng cướp buông tay là thành Phật, câu nói có cùng một nghĩa lý như vậy.
- Đã có chí nguyện rời xa ác thì cứ như vậy thẳng tiến. Xấu ác xa rời, tự khắc tội lỗi, phiền não không phát sanh, thân an, tâm an, sáng biết lần về. Như rút củi thì lửa phải tắt vậy. Mọi việc rõ ràng, thực tiễn, chẳng có gì lung linh, huyền hoặc cả. Tu học thì phải thực hành, là tròn nghĩa hai chữ “Tu Hành”. Người xa rời mọi điều xấu ác, thiện căn tự khai mở, chân thật tâm lần về, nếu được thiện tri thức truyền trao pháp tu rốt ráo, đạt đạo, duỗi chân là thấy đạo. Mấu chốt tu học thực tế giản đơn như vậy.
Kết thúc một ngày học tập, đạo sư kể một câu chuyện rồi đặt câu hỏi để Spal, Alen và Babu tự quán xét và đưa ra câu trả lời phù hợp, cũng là cân đo sự sáng biết của từng người.
Đạo sư nói :
- Kinh sách thường có điển tích “Người săn nai”, người xưa hay dụng để cân đo cái sáng biết và chân thật tâm của mỗi người. Tôi cũng làm như vậy, các ông hãy lắng nghe cho rõ.
- Có một vị vua đi săn bắn cùng đoàn tùy tùng, đang rượt đuổi một con nai, túng thế nó chạy vào ngõ cụt, ẩn mình nơi dốc đá sau lưng người đang tu học pháp Chân thật. Vị vua đi đến hỏi người tu Chân thật tâm : “Ông đạo kia, ông có thấy con nai vừa chạy ngang qua đây hay không ? Ta tôn kính người tu nhưng nếu ông dối giả, nói lời không thật thì mạng ông ta cũng không tha !”.
Đạo sư dặn dò :
- Các ông ở đây ví như là vị đạo sĩ kia, nhà vua đang hỏi các ông, không khéo nói, có chút giả dối, không thật thì đến cái mạng cũng không còn để mà tu. Hãy quán xét cẩn trọng, nghĩ suy cho ra câu trả lời sao cho lời nói phải chân thật, không chút dối giả để cứu được mạng nai mà không tổn hại đến nhà vua và cả chính mình nữa. Hãy quán xét, không được luận bàn, mỗi người tự viết đáp án trình lên.
- Tôi cũng như người xưa, nếu các ông thông sáng trả lời cứu được mạng nai, tôi sẽ triển khai cho một pháp học mới mà xưa nay chưa ai triển khai để các ông dụng pháp mà độ sanh cho có hiệu quả. Các ông hãy về nghỉ ngơi và suy xét điều tôi vừa nói. Sáng mai lên trình ý !

19. DỤNG TÂM CHUYỂN TƯỚNG - CHUYỂN ĐỊA NGỤC THÀNH THIÊN ĐÀNG
Babu ngập ngừng muốn thưa thỉnh điều gì, đạo sư thấy vậy hỏi :
- Babu, nhà ngươi muốn nói điều gì ? Xin kéo dài vài ngày để quán xét cho thấu đáo chăng ?
Babu nghiêm trang nói “
- Kính đạo sư, chẳng phải như vậy mà con muốn trình ý ngay bây giờ, vì nhà vua hỏi thì phải trả lời ngay, ngập ngừng một chút cũng không ổn, đợi tới ngày mai thì thực tế nai chắc phải chết rồi.
Spal và Alen cũng nói :
- Babu quả là thông sáng, chúng tôi cũng nhất trí như vậy, xin được trình ý ngay bây giờ.
Đạo sư nhìn ba người tu học hớn hở muốn trình ý, cười rồi bảo :
- Các ông muốn như vậy cũng được, vậy hãy viết nhanh gọn đáp án vào giấy và trình lên !
Spal, Alen và Babu nhanh chóng viết chưa đầy một phút đã xếp tờ giấy trình lên.
Đạo sư nói :
- Ba người viết sao mà nhanh vậy ? Tôi xem ngay đây !
Spal, Alen và Babu nhìn nhau dò xét vì chẳng ai nói với ai điều gì, viết cũng ở riêng nơi, cả ba thật sự chẳng biết bạn mình viết gì, đúng hay sai gì đạo sư cũng cho biết ngay thôi !
Quả là một bài kiểm tra thú vị và đáp án chắc cũng chẳng kém phần sôi động, ba người hồi hộp chờ đợi đạo sư duyệt xem. Đạo sư mở ba tờ đáp án của Spal, Alen và Babu. Cả ba tờ giấy đều ghi vỏn vẹn bốn chữ như nhau “ Cải tướng số pháp ”.
Đạo sư nhìn Babu hỏi :
- Babu, nếu nhà vua hỏi: “Nai có chạy ngang qua đây không thì ngươi trả lời ra sao ? ”
Babu đáp :
- Vua là người có quyền lực cao tột cũng là người tinh tường thế sự không thể nói dối giả được, cách tốt nhất là chân thật với vua cả với chính mình, con sẽ trình tâu với vua : “ Nai thật có chạy ngang qua đây, đang ẩn núp sau lưng hạ thần, hạ thần muốn cứu mạng cho nai nên có ý định đánh đổi mạng nai với một thứ quí giá nhất trên đời, đức vua cũng chưa từng có, chưa từng thấy biết qua, xin đức vua vui thuận xét cho.”
Đạo sư hỏi Spal :
- Còn ông,trả lời sao với nhà vua đây ?
Spal nghiêm trang nói :
- Tâu đức vua, nai vừa chạy ngang qua đây, là hẻm cụt nai không thể chạy thoát được. Tôi và nai rõ là hữu duyên gặp nhau, thấy chết mà không cứu giúp thì thật là không phải nên có ý xin đức vua tha mạng cho nai, tôi sẽ dâng hiến cho đức vua một báu vật có thể chuyển đổi sinh mạng, kéo dài thêm tuổi thọ của đức vua và cả cho thần dân của đức vua nữa. Tôi là người tu Chân thật tâm, lời nói không dối giả, xin đức vua thuận tình cho.
Đạo sư hỏi Alen :
- Còn ông, trả lời sao với nhà vua ?
Alen nói :
- Tôi cũng như hai người vừa trình ý, với một ông vua thì mạng số vua và tuổi thọ là cái yêu quí, trân trọng nhất, trên cả sự giàu sang và quyền lực, nên tôi dụng Cải tướng số pháp để trao đổi xin vua tha mạng cho nai là điều hợp lý nhất.
Alen nói thêm :
- Những pháp học đạo sư chỉ dạy đều như những báu vật nếu người biết cách sử dụng cho mình và giúp cho thế gian. Dụng tâm để chuyển đổi bao tướng trạng xấu ác trở nên tốt lành và thánh thiện quả là chuyện tốt lành. Với một ông vua còn ham vui săn bắn thì mạng nai quả thật bé nhỏ, đánh đổi báu vật chắc nhà vua sẽ thuận tình. Nay còn muốn dâng cho vua cả một kho báu về tâm thức, với vua đây quả là một điều lạ lùng và bất ngờ.
- Tuy nhiên, ý tôi chẳng phải chỉ riêng cứu mạng nai hay cứu một ông vua ham vui mà là cứu cả thần dân xứ đó và các xứ lân cận khác, dần tới là cứu giúp cho cả chúng sanh. Chính nhờ vua là người có quyền lực và giàu có, nếu nhà vua khởi động việc chỉ dạy đạo pháp cho toàn dân quả là việc lành lớn thật đáng làm, không phải ai cũng có đủ thần lực khởi động một việc lớn lao như vậy.
Đạo sư trầm ngâm nhìn Babu, Spal và Alen làm cả ba đều cảm nhận còn có điều gì thật chưa ổn đây, một lúc sau đạo sư mới mở lời :
- Ba người quả là thông minh, biết vận dụng cái biết của mình vào đời sống là thực tế giúp mình, giúp cả cho chúng sanh nữa. Nhà vua thì chắc chắn hài lòng lắm rồi nhưng tôi thì chưa vừa ý ! Vì sao tôi nói như vậy ?
- Vì dù tuổi thọ có dài đến bao nhiêu, sang giàu quyền lực có cao tột đến đâu mà thiếu Chân thật tâm và Từ ái cũng sẽ tự rơi vào con đường ác gian, giả dối, con đường dẫn đến địa ngục ! Càng giàu sang, càng nhiều quyền lực, càng dễ sanh nhiều tội lỗi, không chỉ hại chính mình mà còn gây thảm họa cho muôn vạn người, chẳng khác gì Ma vương, Quỷ vương. Con đường khổ đau, phiền não như địa ngục, không ngoại trừ cho một ai thiếu sự chân thật và từ ái.
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Gốc rễ của sự khổ đau trong xã hội con người phát sanh từ chỗ thiếu chân thật tâm và từ ái. Người đời không chân thật và thiếu từ ái sẽ tự rơi vào con đường xấu xa, tội lỗi, theo sau là tù tội, phiền não, không ai ưa mến, bị mọi người khinh khi, xa lánh, làm sao có thể sống an ổn trong đời được. Gia đình thiếu nền tảng chân thật tâm và từ ái sẽ như một địa ngục nhỏ, không bao giờ có hạnh phúc được. Một xã hội hay một đất nước thiếu nền giáo dục đạo đức chân thật và từ ái thì con đường xấu xa, tội ác rộng mở cho toàn dân và tất nhiên, địa ngục khổng lồ đã được hình thành ngay tại trần thế.
- Hiện tại, trên thế giới này chưa quốc gia nào có được nền giáo dục cân đối giữa đạo đức nhân bản và các kiến thức khoa học kỹ thuật, kinh tế, chính trị … Người ta xem đạo đức như một môn học tự nguyện, chỉ quan tâm nhiều đến việc trau dồi các kiến thức khoa học, xã hội mà thôi. Không ai lưu tâm rằng, đào tạo những con người tài giỏi mà không có đạo đức, từ ái thì chẳng khác nào tạo ra Ma vương, Quỷ vương, càng tài ba lỗi lạc càng gây thảm họa lớn cho nhân loại.
Babu suy tư một chút rồi hỏi đạo sư :
- Con thấy có biết bao tôn giáo xây dựng nhiều nhà thờ, chùa chiền cùng hằng hà đình miễu khắp nơi, nơi nào cũng chỉ dạy những điều tốt lành, như vậy vẫn không đủ làm cho thế giới này an lành được hay sao? Xin đạo sư chỉ dạy giúp cho.
Đạo sư nói :
- Đúng như ngươi nói, dù có thêm hằng sa những điều như vậy cũng không làm thay đổi được cục diện khốn khó này.
Vì sao như vậy ? Các ông hãy lắng nghe và suy xét.
Đạo sư giảng day :
- Như tôi đã nói, xưa nay người xem đạo đức như một môn học tự nguyện, ai thích thì học, ai không học cũng chẳng bị phiền hà gì. Tôn giáo thì chỉ mới phát triển sau này và thông thường dành cho những ai bị khổ đau, phiền não, ví như mắc bệnh mới đi tìm thầy, tìm thuốc vậy, chưa phải là phương cách trị tận gốc.
- Xưa nay chưa ai có đủ thời cơ và thần lực để khởi động cho toàn thể nhân loại nhận biết được những vấn đề đạo đức nhân bản tốt lành như vậy, để chuyển đổi địa ngục trần gian này thành thiên đàng tại thế.
Spal suy tư về điều quan trọng này nên lên tiếng hỏi đạo sư :
- Kính đạo sư, tôi thấy việc này quả là trọng đại thật khẩn thiết và thực tiễn cho toàn nhân loại. Tôi nghĩ suy, việc tạo dựng sự an lành, ổn định cho chúng sanh hiện nay trên toàn thế giời còn cấp bách hơn cả việc thực hành, chỉ dạy pháp tu rốt ráo đạt đạo nữa ! Xin đạo sư vui lòng nói rõ các phương cách cụ thể có thể giúp chúng sanh chuyển biến địa ngục trần ai này thành thiên đàng tại thế có được hay không ?
Đạo sư cẩn trọng nói :
- Ông suy tư, nghĩ được như vậy là đã có nhiều sáng biết. Như có lần tôi nói với ông, rõ ràng thế giới đang lần vào chỗ giết chóc lẫn nhau, khác nào các loài cầm thú xâu xé, ăn thịt lẫn nhau. Bao nhiêu Giáo chủ tài ba ra đời nhưng chưa phải thời nên cũng không thể khởi động và triển khai nền giáo dục Chân thật tâm và lòng Từ ái cho toàn thể nhân loại được. Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa, chưa đủ đầy ba yếu tố đó thì chưa thể tiến hành được một việc trọng đại như vậy.
Đạo sư nói tiếp :
- Nay thời thế đã chuyển dần tới chỗ thuận lợi các phương tiện truyền thông hiện đại cho phép chuyển giao thông tin đến khắp nơi trên thế giới trong thời gian cực ngắn, chỉ vài phút thậm chí gần như ngay tức khắc, đó là điều mà các thời đại trước chưa thực hiện được. Người ta có thể triệu tập một cuộc họ khẩn cấp giữa các nguyên thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo, các chuyên viên kỹ thuật trong vòng một vài ngày để giải quyết một vấn đề khẩn thiết nào đó.
- Tuy nhiên, người ta lại chưa thật biết rõ chân thật tâm và từ ái là gốc phát sanh tất cả các thiện pháp, là điều kiện tiên quyết để tạo dựng thiên đàng tại thế, nếu thiếu vắng hai yếu tố này thì địa ngục trần gian sẽ khai mở.
- Mọi người từ nhà lãnh đạo, người trí thức cho tới dân gian đều cho việc đó không phải là trách nhiệm của họ nên chẳng ai lưu tâm. Và sau cùng, do chưa có một vĩ nhân, người phải có đủ đầy tâm lực, trí lực, tài lực, mới có thể khởi động để mọi người tín tâm, tin nghe theo.

20. MẤU CHỐT DỤNG TÂM - TU HỌC LÀ “HẠ QUYẾT TÂM”
Đạo sư nói tiếp :
- Chính vì vậy, việc truyền đạt ý tưởng giáo dục Chân thật tâm và lòng Từ ái, thiết lập một nền giáo dục đạo đức nhân bản như một thông điệp cho toàn thể nhân loại là chuyện cần thiết, giúp mọi người có ý niệm, suy tư về vấn đề trọng đại này. Khi tất cả đều hiểu và thấy được việc cần phải làm, cần có sự đổi thay là lúc Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa đã tròn đủ, chỉ cần có một sự khởi động đúng lúc thì địa ngục hóa thiên đàng chẳng còn là chuyện khó khăn hay quá xa vời nữa.
- Tất cả chỉ là sự chuyển biến nơi tâm thức của mọi người, khoa học và thực tiễn chứ chẳng phải chuyện huyền hoặc lung linh từ trên trời cao ban phát xuống thế gian. Một ý tưởng khi còn là một lạch nước nhỏ thì thấy chẳng đáng gì, nhưng kết nối lại toàn thể nhân loại thì thành sông, thành biển cuồn cuộn, mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản được.
Babu nhớ đạo sư hứa sẽ dạy những bài pháp mới lạ nên rất nóng lòng khi thấy đạo sư chưa đề cập tới các việc đó, bèn dọ hỏi :
- Kính đạo sư, hôm qua đạo sư có nói sẽ chỉ dạy các môn học mới chưa có ai triển khai trong thời gian qua, con nóng lòng muốn biết pháp tu học ra sao, khó dễ thế nào, xin đạo sư nói sơ lược có được hay không ?
Đạo sư ôn tồn nói :
- Các pháp môn tu học cũng chẳng khác gì những môn học ở thế gian, chẳng có pháp học nào là thật khó hay dễ, dễ hay khó là do người tu học có quyết tâm hay không mà thôi. Mấu chốt đầu tiên của người học đạo là “Hạ quyết tâm ”, “ Tâm xong việc xong ”.
- Các pháp học thật chẳng có lợi ích gì khi người thu nhận chỉ nhằm thỏa mãn sự tò mò, sự thích thú giống như nghe chuyện vui lạ, hay để chứng tỏ mình là người trí thức để được mọi người khâm phục, rồi sanh lòng kiêu hãnh, có thái độ cống cao ngã mạn, khiến cho bạn bè chẳng ưa, Thầy không quý mến thì làm sao có thể an ổn để thăng tiến được.
Đạo sư nói tiếp :
- Vì vậy, tôi thường nhắc nhở người tu luôn phải tự xét mình. Khi thân chưa an, tâm còn lo nghĩ đủ thứ, ghét người này, chê người kia, chân thật tâm chẳng có, từ ái cũng không, tâm là gì cũng không hiểu, ý niệm, cảm thọ, vận hành tâm thức ra sao cũng chưa từng biết … Tệ hại như vậy mà muốn học biết cách thực hành của hàng Thanh văn, Alahán, Bồ tát nhằm thỏa mãn sự ham thích, sự tự đắc. Nếu chỉ có như vậy thì thật chẳng ích lợi gì, chỉ lảng phí thời gian và công sức một đời mà thôi.
- Tôi đã nói rõ, người thật muốn tu cần biết mình phải khởi tu ra sao, học cái gì và tại sao phải học như vậy. Việc đời hay đạo, học gì cũng phải có thứ lớp, có tầng bậc, không thể nóng vội mà thành tựu được :
Đạo sư đưa ra ví dụ :
- Ví như người có bệnh đi tìm Thầy chữa trị, nghe người ta đồn Thầy này hay, thuốc kia diệu dụng nhưng nào thật biết, tệ hơn là trường hợp người bệnh tự chuẩn đoán, xem sách để tự tầm cầu phương thuốc chữa trị. Chữa trị như vậy khiến cho bệnh tình chẳng thuyên giảm mà còn trầm trọng hơn, hết phương cứu chữa cũng là chuyện đương nhiên chẳng có gì lạ cả.
Đạo sư nhìn Babu, Spal và Alen rồi nói :
- Các ông cũng vậy, là những người thông minh có học thức, một khi đã biết việc tu học phải rõ ràng, dứt khoát như vậy, chứ không mơ màng, lập lửng. Đã quyết tâm và xác định được con đường tu của mình thì như người đã có la bàn định hướng trong tay, cứ như vậy mà tiến bước.
- Người nói muốn tu mà lòng chẳng chân thật, điều xấu ác không chịu xa rời, từ ái chẳng có, cha me, anh chị em, bạn bè cận kề, cùng sống với nhau từ tấm bé, chẳng chút trân trọng, chẳng thương mến, không lưu tâm cứu giúp thì rõ biết như kẻ chẳng thật muốn tu. Có người lại nghĩ người tu là người cao quý, xem thường những người chưa biết tu, cho đó là kẻ hèn kém, chẳng ra gì, cũng là bước dần vào chỗ sai trái, phạm lỗi lầm nghiêm trọng mà chẳng hay biết.
- Tôi nhắc nhở nhiều lần về việc khởi tu, bởi đó là điều quan trọng thiết yếu. Quyết tâm ra đi mà không định hướng đúng thì dễ bị sa hầm lọt hố, khéo thì còn biết quán xét mà tầm ra con đường an lành để quay về. Người đời chê trách tại Thầy không tường, trò không rõ mới ra cớ sự thì cũng chưa phải lý. Bởi căn cơ của Thầy và trò chỉ có chừng ấy, làm sao có thể chỉ dạy tốt hơn được, cho nên có biết cũng chẳng còn phương hướng nào khác, đành nhắm mắt buông xuôi chờ cho hết kiếp vậy.
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Mấu chốt của người học đạo và người dạy đạo là khởi đầu phải học và phải dạy như vậy. Lòng chân thật làm cho đất tâm bằng phẳng, xa rời các việc xấu ác giống như loại cỏ gai góc, đá sỏi, thêm một chút việc lành và từ ái, chẳng khác nào trồng hoa, ươm cây trái, cho nên, dù chẳng mong cầu gì thì hoa trái cũng tự sinh sôi nẩy nở tốt đẹp. Biết mấu chốt dụng tâm, dụng pháp như thế. Bỏ công sức tu học thì có thành tựu, có ra công chỉ dạy thì có kết quả. Cái khó là chỗ biết mấu chốt, chứ chẳng phải tu khó hay thực hành pháp tu là khó !
- Người tu lòng chưa chân, chưa thật, tâm luôn xao động như sóng nước, xấu ác không rời như phong ba bảo táp chực chờ, mà muốn vượt qua biển đời một cách an lành là chuyện không thể được. Rõ ràng như vậy chứ nào phải chuyện bày vẽ mù mờ, huyền hoặc, ai cũng có thể thấy biết, thực tiễn và khoa học như vậy. Lòng chẳng chân, tâm chẳng thật thì muôn đời cũng không thành tựu được việc gì, trong đời cũng vậy, trong đạo cũng như vậy.
Đạo sư tóm ý :
- Nói cùng tận như vậy để người đời dù đang là vua quan, cô thầy hay ông bà, cha mẹ, anh chị rõ biết, lòng chẳng chân thật và thiếu từ ái thì dần dà cũng bị phát hiện là những người dối giả. Người tu dù là cư sĩ, Sư tăng, Hòa thượng hay Giáo chủ, nếu vắng bóng chân thật tâm và từ ái, cũng đồng một dạng tâm người như vậy. Không một vị Phật, Bồ tát, Thánh nhân nào không tròn đủ chân thật tâm và từ ái. Vì vậy mới nói chân thật tâm và từ ái được xem là nền tảng phải có của một người, nhất là người muốn tu học.
Đạo sư ví von để nhắc nhở :
- Ánh dương là nguồn sống an lành cho cả thế gian.
- Ngọn hải đăng soi rọi cho tàu thuyền an lành trong những đêm tâm tối.
- Chân thật tâm là định hướng tới an lành cho chúng sanh lần bước trong vô lượng kiếp.
Điều có vẻ thật bình thường như vậy nhưng nếu thiếu vắng thì thảm họa tức khắc bủa vây !

21. PHÁP DIỆU DỤNG “NHẬP TÂM HÀNH THIỆN PHÁP”
Đạo sư nói về sự diệu dụng của pháp “ Nhập tâm hành thiện pháp ” :
- Một người tu học biết mình còn khiếm khuyết nhiều điều, như thấy lòng mình chưa chân thật, từ ái chưa tròn vẹn, vẫn còn va vấp vào bao điều xấu ác trên đường đời, nay muốn nhanh chóng tiến bộ thì phải áp dụng phương cách “Nhập tâm hành thiện pháp”.
 - Như người lính trong binh đội, hàng ngày phải tập luyện chiến thuật, chiến lược và đủ loại đội hình, các cách ứng phó với từng hoàn cảnh, để khi ra mặt trận đã có kinh nghiệm, có thể ứng phó kịp thời với mọi tình huống. Người lính luôn thắng trận là nhờ đã được tập dượt, rèn luyện kỹ càng hàng ngày trong doanh trại.
- Người khởi tu cũng vậy, phải biết lặng lẽ quay vào tâm ý mình, tập luyện quán xét từng sự việc đã va vấp ngoài đời, việc như thế phải ứng xử sao cho hợp tình hợp lý, cho phải đạo chân thật và từ ái. Đó là đang nhập tâm hành xử mọi việc cho được tốt đẹp, thiện lành, nói gọn lại là “Nhập tâm hành thiện pháp”.
- Cũng như người lính được tập luyện mọi thứ nơi doanh trại, người nhập tâm hành thiện pháp cũng thuần thục mọi phương cách ứng xử trong tâm, khi chạm việc ở ngoài đời không còn va vấp, sai trái, lỗi lầm. Lỗi không sanh nên thân tâm an tịnh.
- “Nhập tâm hành thiện pháp” là phương cách quay trở vào tâm, quán xét một sự việc cho hợp với mình, ứng xử vui thuận với mọi người, hợp với định hướng và nguyện ước của mình là phải chân thật tâm, xa rời mọi điều xấu ác, từ ái, xót thương, cứu giúp mọi người. Nhập tâm quán xét để tâm mình làm các việc thiện lành trong ý, trong tâm là thực tế đang dụng tâm tu tập thiện pháp, dù chưa thực tế va chạm các việc như vậy ngoài đời, nhưng căn lành đã khai mở, thiện phước đã quy về.
Đạo sư nói tiếp :
- Quán xét rõ biết việc khởi tu phải là tự nơi tâm mình, nơi thân mình. Muốn làm đủ thứ chuyện để tu mà không nhìn thấy được thân mình ốm yếu gầy còm, nay đau mai bệnh, thân mình lo còn chưa xong thì mong gì nói chuyện đi cứu ai, đi giúp ai cho được. Hàng ngày mở mắt ra, cận kề bên ta là ông bà, cha mẹ, vợ con, anh chị em, bà con chòm xóm, bạn bè. Những người cận kề như vậy mà không thấy, không giúp thì đi đâu lo làm lành, làm phước, làm những việc xa xôi gì cũng đều là chuyện vẽ vời, không thật.
Đạo sư nói :
- Việc khởi tu thật giản đơn, kề cận bên mình như vậy mà lo chưa được, làm chưa xong thì mong cầu tu pháp gì cao xa, làm việc gì to lớn cũng là cái tâm ham mê vọng động mà tu. Tu học như vậy, lòng chẳng chân, tâm chẳng thật, sa hầm lọt hố là chuyện không thể tránh khỏi ! Ông bà, cha mẹ lo cho mình từ lúc còn nằm nôi, anh em bè bạn cùng sẻ chia từ tấm bé mà chẳng xót thương, không quan tâm cứu giúp lại nói đi đâu tu học pháp thượng thừa đạt đạo để độ chúng sanh. Nói như thế, người như thế, tâm như thế, xét suy có phải là mộng là mơ mà tu không !
- Nhập tâm sét suy mới biết cái khởi đầu tu quan trọng như vậy, nên tôi luôn nhắc nhở các ông, những việc gần gủi, thiết thực như thế mà chẳng thấy, chẳng biết, thì có danh, có tiếng gì trên thế gian cũng là thứ không thật, là ảo vọng bỏ đi mà thôi. Cái thành tâm thật ý muốn tu, cái khởi đầu duyệt xét mình như vậy là cái quan trọng, hiểu biết rồi, “Hạ quyết tâm” một đường thẳng tiến như vậy, có đi là có tới. Vì vậy, kinh sách thường nhắc nhở : “ Một ngày chưa duyệt xét mình xong, trăm năm đạo khó thành ! ”.
Đạo sư giảng nói rõ ý “tâm tu chẳng phải việc tu”.
- Ví như có người chạy khắp nơi lo các việc từ thiện cứu giúp, nghe nói như vậy thì có ý không hài lòng, thắc mắc hỏi: “Vì sao ngồi ở chỗ, chỉ nghĩ suy chuyện thiện lành như vậy mà căn lành khai mở, phước báu quy về? Điều như vậy thực tế có hay không ? ”
Đạo sư giảng giải tiếp :
- Rõ biết tâm thức là chủ yếu, làm mọi việc thiện lành ở bên ngoài cùng đích là để cho tâm thức con người chuyển biến tốt lành, thiện căn khai mở mà thôi. Ví như có người dụng việc cứu giúp để quyên góp, lấy ra ít nhiều làm chuyện tà tư, bề ngoài thấy làm việc thiện, ác ở nơi tâm, chẳng phải ở tại việc là như vậy.
- Phật từng thuyết: “ Người bố thí và người tùy hỷ vui theo, công đức cũng ngang bằng nhau ”.
Người chưa hiểu biết, nghe như vậy thấy không hợp lý nhưng thật chất tâm người bố thí “ từ tâm khai mở ”, người tùy hỷ vui theo thì từ tâm cũng khai mở như vậy, cái tâm thức đó theo ta đến vô lượng kiếp chứ chẳng phải việc bố thí theo ta được. Biết rõ mấu chốt dụng tâm sẽ được những diệu dụng như vậy !
Đạo sư tóm ý về pháp hành “Nhập tâm hành thiện pháp”.
- Đây là pháp thực hành tu tập tâm thức trở nên tốt lành, già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, thiện ác gì cũng tự tu tập được. Người già yếu bệnh tật, trẻ em hay người mù chữ, kể cả những người xưa nay ác gian, hoặc người nghèo khó quá trong đời, thiếu mọi điều kiện để làm các việc phước thiện ngoài đời thì chỉ cho họ “Nhập tâm hành thiện pháp” là thực tế giúp họ tu tập ngay trong tâm thức các điều tốt lành, thiện căn phước báu đều quy về đầy đủ như người thực tế làm các việc lành ngoài đời vậy !
- Đó là phương cách tu tâm diệu dụng, thật giản đơn, ai cũng có thể tu tập được, lúc nào, nơi nào cũng có thể thực hành được. Bất luận nơi nào, thời khắc nào cũng tự tâm phát từ ý, chân thật duyệt xét xa rời mọi việc xấu ác ở trong tâm mình, không gây chống chướng với ai cả. Ai có nhập tâm hành thiện pháp là thực tế có quả phước báu quy về, thiện căn khai mở. Nhân quả rõ ràng, không sai chạy như vậy !

22. TẠO DỰNG THIÊN ĐÀNG TRẺ THƠ
Babu thường nghe đạo sư nhắc tới thiên đàng, thật là điều vui thích nhưng chưa có dịp thưa hỏi. Thực tế ai ở trong đời cũng đều mơ ước thấy biết được thiên đàng để xem nó tốt đẹp ra sao ! Xưa nay, ai cũng từng nghĩ qua nhưng thực tế chẳng ai thật biết điều gì về chốn thiên đàng cao đẹp đó. Nhưng sao đạo sư nói thêm từ “trẻ thơ” trong đó ? Như vậy là có ý nói tới thiên đàng của tuổi thơ thiên thần chưa bị nhiễm ô tội lỗi chăng ?
Babu cung kính hỏi đạo sư :
- Con nôn nóng muốn thật biết có thiên đàng hay không ? Xin đạo sư chỉ dạy.
Đạo sư hỏi lại Babu :
- Nhà ngươi muốn có thiên đàng hay chẳng có thiên đàng ?
Babu thật tâm nói :
- Con muốn thật có thiên đàng, không thích nghe ai nói thiên đàng là giả tưởng, là không thật !
Đạo sư nhìn Babu thương xót hỏi tiếp :
- Các giáo chủ, kinh sách đều nói tới thiên đàng, vậy ngươi cho là giả dối, là gạt lừa chúng sanh hay sao ?
Babu chân thật trả lời :
- Con không dám nghĩ là kinh sách dối gạt thế gian nhưng có lẽ đó là lời khuyến dụ cho chúng sanh ham thích mà tu tập.
Babu, Spal và Alen đang chăm chú nghe, đạo sư ôn tồn nói :
- Ta kể cho các ông nghe chuyện các đệ tử Phật Thích Ca hỏi về Thiên đàng, Hoàng thiên, Hậu thổ. Căn do khởi đầu là chuyện La Hầu La - con Phật Thích Ca - đã đắc đạo Alahán, sống bên cạnh Phật cho tới khoản năm mươi tuổi. Một hôm La Hầu La cung kính bạch với Phật: “Kính đức Thế Tôn, nay con quán xét không còn chuyện gì nơi thế gian, con xin đức Thế Tôn cho con được viên tịch !”.
Đạo sư kể tiếp :
- Phật Thích Ca nhập định quán xét xong rồi bảo : “Quả là ngươi chẳng còn chuyện chi phải làm ở thế gian, ngươi có ý muốn ra đi thì cứ đi !”. La Hầu La cung kính bái tạ đức Thế Tôn, bái từ tạ chúng tăng rồi tọa thiền, nhập định, vào ra bốn lượt thiền rồi mới viên tịch. Lúc bấy giờ vua quan, dân chúng, chúng tăng lấy lễ hỏa táng một vị vua để an táng cho Alahán  La Hầu La, vì trong đời La Hầu La có căn cơ là một vị vua.
- Mấy ngày sau chúng tăng vẫn còn tưởng nhớ đến La Hầu La cung kính hỏi : “ Kính bạch đức Thế Tôn, chúng con chưa rõ thiên đàng thật sự tốt đẹp ra sao mà các vị đắc Alahán thường hay muốn thị tịch, cả như Alahán La Hầu La - con Phật, Phật còn tại thế cũng xin Phật ra đi. Chúng con chưa đạt quả Alahán nên chưa thật biết, vì vậy cùng có ý cung thỉnh đức Thế Tôn giảng dạy.”
Phật dạy :
- Ta từng thuyết về Hoàng thiên, Hậu tổ, các tầng trời hữu sắc và vô sắc nhưng ta không thọ ký vì không phải là chánh pháp, các việc như vậy có biết cũng không làm cho chúng sanh bớt khổ đau và giải thoát được. Với người căn cơ còn quá thấp kém, thường ta không giảng nói tới, với các ông có phần sáng biết, ổn định, hãy lắng nghe và tự nhận biết.
- Ví như các ông ở đây có người đi cầu xí, trượt chân rơi xuống hầm phân, người ta vớt các ông lên, móc phân, giòi trong miệng, trong mũi, trong tai các ông, tắm rửa bảy lần, xức nước thơm bảy lần cho hết mùi hôi thối. Các ông đã sạch sẽ như đang ngồi đây, nay hỏi các ông có muốn trở lại hầm phân hôi thối đó nữa hay không ?
- Thiên đàng và cõi Ta bà này nó chênh lệch nhau như vậy, các người tự quán xét nghĩ suy mà biết. Ta không thể dùng ngôn từ để diễn nói những cái mà các ngươi chưa từng biết tới và cũng không thể hình dung ra được.
Phật dạy tiếp :
- Ví như chuyện Rùa cõng Cá lên rừng để tự thấy biết Cọp, Beo, Voi, Gấu. Không thể giải thích hay giảng nói được cái mà Cá chưa từng thấy biết như vậy ở dưới nước. Chánh pháp ta chỉ dạy cho các ông cũng tương ưng như vậy, khi đạt được đạo quả rồi thì tự khắc sẽ thông hiểu. Ví như các ông muốn tìm biết không gian này hữu hạn hay vô hạn, có sanh tự bao giờ và khi nào thì tận diệt, dù nó có ra sao thì cũng chẳng lợi ích gì cho việc diệt khổ, giải thoát luân hồi của các ông ! Thật chẳng lợi ích gì, phí công vô ích vào những chuyện như vậy.
Đạo sư dừng lại nhìn Babu, Spal và Alen còn đang mơ màng, nói tiếp :
- Thiên đàng chẳng phải cái thực có đó hay sao, mà các ông còn mơ màng, có ý muốn biết cái thiên đàng đó ra sao, làm bằng gì, sống ra sao nữa ư? Từ cõi Ta Bà này nói qua tới tầng trời hữu sắc còn không hình dung ra được, rồi qua tới tầng trời vô sắc, bao nhiêu thứ khác lạ mà cỏi Ta bà này chẳng có thì làm sao các ông hình dung biết cho cùng được.
- Lấy lời không thật để diễn tả như thật là không phải phép. Nếu lấy lời không thật biết mà nói chẳng thật có gì cả thì lại càng sai trái, không hợp đạo lý. Vì chuyện không rõ biết như vậy mà cống cao ngã mạn, dễ phát sanh tội, sanh lỗi, có phải là điều khù khờ, ngờ nghệch quá hay không ?
Đạo sư ôn tồn nói :
- Các điều muốn biết như vậy đều qua tâm thức mà biết, chẳng phải dụng mắt thường mà nhìn thấy cho được, không có hình ảnh gì ở trong đầu các ông cả, đừng dụng trí biết để truy tìm vô ích mà thôi.
- Ví như tôi nói với các ông muốn thấy lại tiền kiếp của mình thì phải làm các pháp thực hành như tôi chỉ dạy, phải làm đúng như vậy thì tâm thức mới thấy biết chứ chẳng phải cái gì hiện ra trước mắt để biết. Học về tâm pháp là cái thực tiễn, khoa học, trở vào tâm thức học biết về nó, xem nó vận hành ra sao thì mới có cơ hội thật biết cho được, không phải chuyện lễ lạy, mong cầu mà biết được.
Đạo sư trở lại chuyện thiên đàng trẻ thơ :
- Tôi gợi ý thiên đàng trẻ thơ chẳng phải nói cái thiên đàng của riêng trẻ thơ hay thiên đàng tốt đẹp như tuổi thơ. Thực chất muốn nói tới cái thiên đàng hiện thực tại cỏi Ta bà này, cái thiên đàng thực tiễn mà mọi người đều có thể thấy được, biết được, hình dung được, muốn có được là phải nhờ trẻ thơ tạo dựng mà thôi. Cái thiên đàng mà chỉ trẻ thơ mới tạo dựng được, nhân loại chỉ còn kỳ vọng vào tuổi thơ mà thôi. Chẳng nhờ tuổi thơ thì chẳng thể có được thiên đàng tại thế !

23. THỜI CƠ ĐỂ TRẺ THƠ TẠO DỰNG THIÊN ĐÀNG
Babu vô cùng ngạc nhiên trước lời đạo sư nói “ Có cái thiên đàng mà chỉ trẻ thơ mới tạo dựng được, nhân loại chỉ kỳ vọng vào tuổi thơ mà thôi. Chẳng nhờ tuổi thơ, tại thế chẳng thể có được thiên đàng ! ”.
Babu nói thẳng, nói thật ý nghĩ của mình với đạo sư :
- Kính đạo sư, con thật sự không thể hiểu được cái thiên đàng ở thế gian này chỉ có trẻ thơ mới tạo dựng được là ý nghĩ ra sao ? Xin đạo sư giải thích rõ cho con được biết !
Đạo sư ôn tồn bảo :
- Nhà ngươi cũng như người thế gian không nhận ra được là chuyện bình thường xưa nay thôi. Ngươi lặng lẽ nghe đừng vội quán xét gì cả, tự khắc sẽ hiểu ra.
Đạo sư nói tiếp :
- Hiện nay cả thế giới đảo điên, con người gạt lừa, hà hiếp, bắn giết lẫn nhau, xâu xé nhau khác nào loài cầm thú ăn thịt nhau, môi trường sống bị tàn phá nặng nề, nghiêm trọng. Nhân loại phải chịu đựng biết bao nỗi thống khổ, phải đương đầu với thiên tai khắc nghiệt, chẳng khác nào như đang sống trong địa ngục đó sao ? Ai đã gây ra các điều như vậy, Ma vương hay Quỷ vương ở đâu tới đây gây tai họa ư ?
Đạo sư nói :
- Những thảm cảnh như vậy chẳng phải do chính con người đã tạo ra hay sao ? Có người nghĩ suy vì sao con người ác độc như vậy ? Thật sự, chẳng phải tự con người độc ác mà do từ các thế hệ trước, các bậc trưởng thượng trong gia tộc, những người lãnh đạo quốc gia và toàn xã hội chưa ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục Chân thật tâm và lòng Từ ái cho trẻ thơ. Người ta chỉ quan tâm dạy cho trẻ các phong cách sống, các kiến thức về nhiều lãnh vực như khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội mà gần như quên lãng việc giáo dục đạo đức. Người ta đào tạo được biết bao thiên tài nhưng thiếu đạo đức, thiếu chân thật và từ ái nên đã dẫn dắt thế giới đến các thảm họa như ngày nay.
- Nói như vậy chẳng phải quy tội, đổ lỗi cho một ai mà chỉ muốn nói lên cái hiện thực và căn do đã phát sanh ra như thế. Chỉ bởi con người không được giáo dục đạo đức đủ đầy mà then chốt là lòng chân thật và từ ái.
- Trẻ thơ như tấm vải trắng, nếu đặt trong môi trường đen xấu thì sẽ bị nhuộm đen xấu, nếu ở trong hoàn cảnh tốt đẹp thì sẽ trở nên tốt đẹp. Do đó, tấm vải có màu tươi sáng đẹp đẽ hay đen tối xấu xa mà kết luận là tại tấm vải thì thật chẳng phải. Trẻ thơ lớn lên có ác, có xấu cũng tương tự như vậy. Ác xấu là do con người và xã hội của từng thời đại đã nhuộm màu sắc xấu ác cho trẻ, nào phải đâu bẩm sinh trẻ thơ xấu ác như vậy.
Đạo sư tóm ý :
- Nói cùng ý như vậy để thấy rằng để thấy rằng từ xưa đến nay, cả thế giới chưa quan tâm thiết lập nền giáo dục đạo đức nhân bản đủ đầy chân thật tâm và từ ái, đã vô tình nối tiếp nhuộm sắc màu xấu ác cho nhau. Trẻ trưởng thành mà thiếu lòng chân thật sẽ trở nên gian trá, thiếu lòng từ ái sẽ trở nên độc ác, xấu xa. Từ bước khởi đầu của trẻ thơ thiếu vắng lòng chân thật và từ ái, toàn xã hội đã bị dẫn dắt vào con đường của sự giả trá, gian manh, độc ác thì có khác gì địa ngục. Rõ ràng chính con người đã tạo ra như thế chứ nào phải quỹ ma từ đâu kéo tới !
Babu hiểu ra mấu chốt vấn đề nên hỏi đạo sư :
- Thưa đạo sư, xưa nay chưa ai từng biết chuyện như vậy hay sao ? Sao chẳng ai làm gì cả ? Nay chỉ có đạo sư nhận biết ra thôi ư ?
Đạo sư nhìn Babu cười bảo :
- Ta nào phải là Thánh Thần hay Tiên Phật gì mà chỉ có ta biết, ngươi đã hiểu lầm ta rồi. Thật ra, đã có nhiều vĩ nhân, giáo chủ sáng biết, cùng biết bao Thầy Tổ đạt đạo, những người minh triết cũng thấy biết như vậy, nhưng cũng đành bó tay !
Babu vô cùng ấm ức, bức xúc nên hỏi :
- Theo sự hiểu biết của con cũng như đa số mọi người, những vị giáo chủ tài giỏi cùng các bậc Thánh nhân đạt đạo đều có thần thông diệu dụng, chẳng rõ vì sao họ không dụng phép thần thông để chuyển đổi tình thế mà phải bó tay cho tới tận ngày hôm nay ? Nhân loại khốn khó quá rồi ! Thật lòng con chẳng thể hiểu được, cái thật, cái giả của việc này nằm ở đâu, xin đạo sư giảng nói rỏ cho !
Đạo sư nhìn Babu thương xót bảo :
- Ngươi quả là có tâm tốt lành nên biết xót xa trước sự việc khốn khó như vậy, nhưng sở dĩ chưa một ai làm được chuyện lớn lao đó chỉ vì cái thời cơ chưa có mà thôi. Ngươi lại muốn hỏi cái thời cơ đó là gì, phải không ?
- Ví như khi ngươi còn nhỏ, không cho ngươi chơi đùa cát đất, ngươi nói :
“ Con nít không cho chơi đùa thì làm gì ?”
Khi trưởng thành lại chết sống tranh nhau theo đuổi nữ sắc, bị rầy la thì ngươi lập luận :
“ Lớn rồi không theo đuổi phụ nữ thì theo ai đây ! ”
Khi ra ngoài trường đời, ngươi lại ham thích tiền tài, danh lợi, tranh giành sống chết với nhau, được khuyên can thì ngươi bảo :
“ Sống không có danh lợi bạc tiền thì sống làm gì đây ! ”
Để đời ngươi bớt khổ đau, phiền não, dạy cho ngươi tu tâm thì ngươi nói :
“ Thực tế trước mắt không lo, học chi chuyện mộng mơ không thấy biết như vậy ! ”
Đạo sư nói tiếp :
- Khi hấp hối gần chết, ngươi mới bắt đầu hoang mang kinh sợ, chẳng biết mình sẽ ra sao, đi về đâu. Tất cả những thứ ngươi đã chết sống tranh giành với nhau ở thế gian, đến nỗi phải chịu bao điều thống khổ thậm chí bị tù tội, nay cũng đành vứt bỏ lại. Có giàu sang quyền lực gì cũng chẳng thể giúp được ngươi trong lúc này. Nay ngươi vô cùng hối hận trước cái thực tế ai cũng phải đi tới cửa tử, ngươi nghĩ, việc rõ ràng, thực tiễn như vậy sao mình cùng mọi người chẳng chịu lưu tâm tìm hiểu. Khi xưa ai có nhắc đến thì ngươi lấp liếm cho qua chuyện rằng : “ Ai cũng một lần chết, tìm hiểu làm gì rồi cũng phải chết thôi, nghĩ chi cho mệt !” Đến khi đối mặt với cái chết mới biết kinh sợ, bèn mời đạo sư tới cầu nguyện, giúp đỡ.
- Khi đó đạo sư tới, xót thương nói nhỏ vào tai ngươi : “ Cũng chưa phải là thật trễ đâu con ạ ! Cuộc đời con người còn vô số kiếp sống như vậy. Đã bỏ lỡ một đời, chỉ chạy theo điều xấu ác, đến khi lâm chung, đối mặt với Diêm vương mới biết chẳng thể chối bỏ hay tránh né các tội lỗi đã gây ra. Ở thế gian, khi sắp bị đưa vào tù mới nhờ người đút lót để chạy tội, chuyện vỡ lỡ ra còn bị vạ lây. Việc xét xử ở thế gian còn nghiêm minh như vậy. Chuyện nhân quả luân hồi công minh, chẳng ai có thể nguyện cầu, xin xá tội cho ngươi được, chỉ hoài công trông mong vô ích mà thôi.”
Đạo sư nói tiếp :
- Chỉ còn một phương cách hữu hiệu, ngươi hãy lắng nghe và ghi nhớ để thực hành ngay lúc này : “ Còn được một hơi thở nào thì chính ngươi phải biết sám hối, biết những việc sai trái đã làm, nguyện sẽ không tái phạm, nguyện sẽ xa rời các điều xấu ác, chân thật tâm làm các việc tốt lành, rồi thì sẽ được an ổn.”
- Ngươi lại lo sợ hỏi : “ Lúc này sám hối liệu có ích gì không ? Vì sao phải làm như vậy ? ”
Đạo sư giải thích :
- Tự nguyện sám hối là một quyết định quay đầu có rời xa các chuyện xấu ác thì đời sẽ an lành đến vô lượng kiếp sau, chân thật tâm làm chuyện từ ái là tạo phước báu ấm no, hạnh phúc cho vô số kiếp sau. Trước khi chết ngươi hiểu được điều này và thành tâm tự nguyện sám hối, tâm thức ngươi đã ghi nhận cái chân thật đó rồi thì vô lượng kiếp không quên, không mất và không có gì hủy hoại được, trước sau gì cũng sẽ nhớ lại và quay đầu về đường thánh thiện thôi !
- Ngươi lại hỏi : “ Đạo sư ơi ! Làm như vậy có ổn không ? Có an lành được không ? ”
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Bồ tát đến độ sanh cũng chỉ làm được như vậy. Ngươi không chân thành nguyện sám hối tội cũ, xa rời mọi tội lỗi mới, thì Bồ tát có đứng cạnh bên cũng đành bó tay. Vì sao như vậy? Vì ngươi không nguyện như vậy là còn có thuận đi theo con đường gian ác, nên Bồ tát ở ngay bên cạnh có nói, có dạy gì thì ngươi cũng có tuân theo đâu, chỉ phí công tới độ cho ngươi mà thôi.
- Bồ tát độ người, nào phải dụng phép thần thông làm cho người hết tội được, chỉ giúp ngươi tự hiểu biết, tự làm tốt lành cho đời mình thôi. Không một ai có thể xen vào thần thức của nhà ngươi để tẩy sửa hay xóa tội cho ngươi được, ngươi đã thật hiểu rồi chứ ! Hiểu được có nghĩa là thời cơ của ngươi đã tới, một niệm sám hối, xa rời các điều xấu ác, quay đầu về đường thánh thiện là an lành. Chỉ khi thời cơ đến, nói là ngươi nhận hiểu được ngay. Quả thật như vậy, chỉ một niệm quay đầu là vô lượng kiếp sau sẽ được thung dung, nào có khó khăn gì đâu.
Babu hiểu cái thời của một đời người là như vậy, thấm thía lời dạy của đạo sư nhưng vẫn còn chút thắc mắc :
- Đạo sư chưa nói cái thời của nhân loại, nó ra sao mà thiên đàng chưa có, chỉ có địa ngục thôi.
Đạo sư cười nói :
- Ta cũng đã nói rồi, nhân loại là con người chung gộp lại thôi, nào có chi là khác lạ. Khi tâm thức mọi người khai mở, địa ngục chưa chèn ép quá sức, thì tâm chưa chuyển hướng về thiên đàng. Nay khốn khổ tận cùng rồi thì tất cả đều ước muốn có thiên đàng, đó chính là thời cơ. Chỉ cần một khởi động nhỏ cũng đủ biến địa ngục thành thiên đàng, chẳng phải dụng thần thông diệu dụng gì cả ! Trước đây, không một ai biết mình đang đi dần đến địa ngục, đang sống trong địa ngục. Chưa tới thời thì có nói gì tâm thức mọi người cũng không thể chuyển biến được.
- Vũ trụ, núi sông, chợ búa cũng bình lặng như vậy, nhưng tâm thức nhân loại có chuyển hướng về đường thánh thiện thì mọi việc bên ngoài tự  vận hành theo hướng tốt đẹp, an lành như tâm ý mong muốn vậy. Thiên đàng tự tâm, chẳng phải tự việc hay tự cảnh vật bên ngoài. Thiên hà vũ trụ, cảnh vật thì muôn đời vẫn như vậy.

24. KHỞI ĐẦU TẠO DỰNG THIÊN ĐÀNG
Spal và Alen đã một lần nghe đạo sư nói tới vấn đề tạo sự an lành ổn định cho nhân loại. Ngay khi đó hai nhà khoa học đã cảm nhận được rằng, đó là việc làm cấp bách và cần thiết hơn cả việc họ đi tầm cầu Chân Pháp để tu đạt đạo quả.
Spal có những nghĩ suy nên hỏi đạo sư :
- Đạo sư nói nay đã có thời cơ, nhân loại đã khốn khổ quá rồi nên mong muốn có sự đổi thay, nhưng thật sự chưa ai biết phải làm gì và phải có những cải tiến cụ thể ra sao ? Tôi và mọi người đều có ý muốn biết những sự việc như vậy có được hay không ?
Đạo sư đáp lời :
- Chuyện an lành của nhân loại, của chung mọi người thì thật sự chẳng có gì mà không nói ra được. Tuy nhiên, chẳng phải chuyện dễ nghe, dễ hiểu. Như các ông có đủ kiến thức trong đời, am hiểu nhiều nơi trên thế giới, biết rõ nền chính trị, kinh tế, văn hóa, đời sống của các quốc gia hiện tại nên có thể hình dung các việc phải làm, những thuận lợi và những đối kháng mạnh mẽ cần phải vượt qua mới có thể thành tựu được. Mặc dù là chuyện an lành cho nhân loại chẳng phải của riêng ai nhưng không phải ai cũng thuận tình ! Vì sao như vậy ?
Đạo sư nói tiếp :
- Có những nhóm người đang nắm quyền thế, đang giàu sang tột bậc, dù là người thiện hay ác, họ đều lo sợ một sự thay đổi lớn có thể khiến họ bị mất hết quyền lực, danh vọng, tài sản. Điều đáng nói là họ đang là người dẫn đầu, bày biện mọi việc trên hành tinh này theo ý muốn của họ.
Những tập đoàn như vậy lớn mạnh không cùng, bao trùm mọi thứ, ngay đến quốc gia nào có ý tách riêng không theo họ cũng thật khó sống với họ, cũng chẳng thể yên ổn. Nghĩ họ là ác quỷ hay ma vương thì cũng không phải, thật ra họ cũng là con người và cũng chẳng muốn mình bị đọa vào địa ngục, họ cũng biết thương yêu gia đình và không muốn con cháu họ sau này trở nên độc ác, xâu xé nhau, ăn thịt lẫn nhau như vậy.
Babu ấm ức hỏi đạo sư :
- Họ đã không muốn sao họ làm các điều xấu ác như vậy, con không thể hiểu được, xin đạo sư giải thích cho.
Đạo sư ôn tồn nói :
- Như tôi đã nói với các ông, không ai có bản chất độc ác như vậy khi mới sanh ra cả, tất cả là do mọi duyên họ gần gũi, mọi thứ họ thu nhận được, đã bị xã hội, con người thời đó nhuộm màu sắc cho họ thành ra như thế. Họ thật là người đáng thương xót, người nào sống trong hoàn cảnh như họ thì cũng sẽ y như họ vậy, không khác được.
Babu càng ấm ức hơn, hỏi đạo sư :
- Đạo sư nói vậy, con thấy không cùng lý, họ như vậy mà bảo không ghét bỏ họ thì cũng đã khó, nay đạo sư dạy còn phải xót thương họ là việc thật khó thuận theo được.
Đạo sư nhìn Babu xót thương nói :
- Mọi người thế tục đều có ý ưa ghét như ngươi, chẳng phải chuyện lạ, nhưng chính mọi người không biết mình đã va vấp một sai trái, một lỗi lầm mà nếu chịu khó suy xét một chút thì sẽ không bị va vấp.
- Nhìn một người xấu ác, mặt khó ưa, phải hiểu rằng, nếu ta lớn lên trong môi trường giống như họ, bị nhuộm ép các việc xấu ác thì ta cũng xấu ác và mặt cũng sẽ khó ưa như vậy ! Nói thế để các ông hiểu, thật sự chẳng phải tự họ muốn như vậy. Ví như một người bị lạc vào rừng, đến lúc đói quá cũng phải hái lá cây mà ăn, ai cũng phải làm như vậy cả. Nay họ mang tội, khổ đau, phiền não, mang hình hài một kẻ khó ưa như vậy không phải là đáng thương xót, đáng được sự giúp đỡ của mọi người hay sao ?
- Nhìn những kẻ giàu sang, quyền thế ai cũng tưởng họ rất sung sướng, hạnh phúc, bởi mọi thứ quanh họ đều tốt đẹp, tiện nghi, đắt tiền. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Thực tế, những người giàu có, quyền lực đều luôn bị vây bọc bởi bao nhiêu chuyện nghĩ suy, toan tính, bao thứ vướng bận phải làm, phải kiểm tra, theo dõi, tâm họ lúc nào cũng bị thôi thúc, động loạn, khó có được một khoảnh khắc an ổn, một giấc ngủ bình an.
Đạo sư nói tiếp :
- Tâm họ luôn hoang mang, lo sợ những điều bất an sẽ ập đến, có khi còn hoài nghi cả gia đình, bè bạn, người cộng sự kề cận. Đôi khi, vì muốn bảo vệ những thứ đã có như uy quyền, danh vọng, tài sản, họ phải hy sinh cả gia đình, bè bạn thậm chí hủy diệt cả người thân. Họ cũng khổ đau về những chuyện như vậy bởi thật sự họ cũng là một con người. Cái gọi là sung sướng, hạnh phúc của người giàu sang, quyền thế thực ra chỉ là cái thoáng nghĩ qua chớ không thật có, cái thật có là cái khốn khó lo âu, phiền não bao trùm mọi lúc, mọi nơi, có khi cả trong giấc ngủ nữa.
Đạo sư tiếp tục :
- Nếu có ai bảo sẽ chỉ cho họ một phương các để được sang giàu, quyền lực nhưng thật sự sung sướng và hạnh phúc, rằng họ có thể được giàu sang hơn nữa và có quyền lực lâu bền, có lẽ các ông nghĩ, chắc chắn họ sẽ vui thuận. Tuy nhiên, thực tế cả thế gian không ai tin được có sự đổi thay kỳ diệu như vậy, chứ chẳng phải chỉ những kẻ đang giàu sang, quyền thế, họ luôn lo sợ và hoài nghi mọi thứ xung quanh.
Alen nóng vội hỏi đạo sư :
- Thật sự có phương cách như vậy sao ? Phương cách có gì bí mật không ? Đạo sư có thể nói qua được không ?
Đạo sư cười bảo Alen :
- Tôi đã nói, chuyện vì nhân loại thì chẳng có gì là bí mật hay phải che đậy mà trái lại, còn mong muốn mọi người đều biết, bởi biết rồi thì sẽ cân nhắc lợi hại, khi thấy có lợi ích, trước là cho bản thân, sau cho tất cả mọi người thì sẽ vui thuận tiến hành, triển khai. Như các ông đã nghe biết về Chuyển Tâm pháp, một pháp thấy như rất bình thường nhưng vô cùng diệu dụng, khi biết thâm nhập, biết vận dụng thì có thể chuyển được tâm ý con người. Người biết vận dụng Chuyển tâm pháp không khác một nhà huyễn thuật muốn gì là được đó !
Babu vui thích reo lên :
- Đạo sư quả là tuyệt vời, những bài pháp đạo sư vừa nói quả là vi diệu, phi thường, xưa nay chưa từng có, xin đạo sư chỉ dạy cho.
Đạo sư cười bảo :
- Ta chẳng có gì hay ho, tuyệt vời như ngươi khen ngợi. Cái hay, cái tuyệt vời không nằm ở chỗ người biết, cũng không nằm trong các phương pháp, mà nó tuyệt vời ở chỗ thực hiện cho được để mang lại lợi ích cho mọi người. Đó mới thật sự gọi là hay, là giỏi, là tuyệt vời đáng tán thán. Các ngươi hãy lặng lẽ nghe các phương cách cần phải học, phải biết !

25. DỤNG PHÁP VI DIỆU - TẠO NHÂN LÀNH CHO TOÀN NHÂN LOẠI
Đạo sư nói về cái hay, cái tuyệt vời của các pháp:
- Cái hay, cái tuyệt vời không nằm ở chỗ người biết, cũng không nằm trong các phương pháp mà nó tuyệt vời ở chỗ thực hiện cho được để mang lại lợi ích cho mọi người. Đó mới thật gọi là hay, là giỏi, là tuyệt vời đáng tán thán.
Đạo sư cho một ví dụ :
- Ví như Phật Thích Ca được chư Thiên tán thán, chẳng phải vì Phật tài giỏi, sáng biết, thông hiểu các pháp vi diệu. Phật tài giỏi, sáng biết là chuyện riêng của Phật. Pháp hay, vi diệu là chuyện riêng của pháp. Nếu chỉ có như thế, thật sự chẳng có gì gọi là hay cả.
- Cái hay, cái tuyệt vời của Phật ở chỗ chịu khổ cực, trụ lại thế gian để chỉ dạy chúng sanh thực hành cho được những phương pháp Phật đã tìm ra, giúp chúng sanh bớt khổ đau, bớt phiền não, sau cùng giải thoát hẳn khỏi luân hồi sanh tử là đoạn diệt tận gốc khổ đau, phiền não. Chỉ dạy cho đệ tử thành tựu Alahhán để lưu truyền đạo pháp và thọ ký một số Alahán làm Bồ tát hầu để sau này độ tận chúng sanh đến vô lượng kiếp nữa. Cái tâm từ ái đó mới thật là tuyệt vời, đáng tán thán và khâm phục.
Đạo sư chỉ dạy tiếp :
- Tuy nhiên như tôi đã nói, dụng pháp chuyển tâm người thì cũng phải có đủ các yếu tố “nhân hòa, địa lợi, thiên thời”. Người phải vui thuận thì mới có thể truyền đạt được, phải biết quán xét căn cơ và học biết thế nào là đúng thời cơ, thích hợp cho mọi người lúc đó, những việc thấy nho nhỏ như vậy nhưng quyết định sự thành tựu của các pháp. Dần dần các ông đều phải học cho bằng được các pháp học như vậy.
Babu cảm nhận còn nhiều cái phải học chứ chẳng phải chuyện dễ dàng nên có ý rên rỉ :
- Đạo sư trước nói nghe như chuyện dễ, nay con mới biết còn thật nhiều điều phải học, phải hành, phải ứng xử cho thích hợp, quả tình chẳng phải dễ như dụng phép thuật thần thông !
Đạo sư cười khích lệ :
- Nhà ngươi muốn ăn cũng còn phải tìm cái gì để ăn cho thích hợp nữa kia, nay chuyện an lành cho toàn thể nhân loại mà dễ dàng, phép thần thông mà làm được thì chư Phật, Thánh thần đã hóa phép cho địa ngục trần gian này biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Rõ ràng xưa nay không có chuyện như vậy !
- Chuyện an vui cho nhân loại phải được toàn thể nhân loại đồng thuận và quyết tâm thực hiện chứ chẳng phải một cá nhân, một nhóm người hay một đạo giáo nào có thể tự tiến hành mà thành tựu được. Cho nên các ông phải nhẫn nại từng bước để tạo duyên tốt lành cho toàn thể nhân loại.
Babu nghe vậy buột miệng nói :
- Đạo sư nói tạo duyên tốt lành cho cả nhân loại ! Quả là chuyện quá lớn, con nghĩ không ai làm nổi chuyện như vậy !
Đạo sư nói :
Ngươi có nhận xét cũng gần đúng như vậy. Xưa kia có bao nhiêu người tài giỏi, các giáo chủ tài năng xuất chúng, nhiều thần thông, dù có ý định tiến hành việc lớn lao như vậy nhưng không thể làm được cũng vì chưa có thời cơ. Các ông thử xem qua một thông điệp cho nhân loại như dưới đây rồi tự khắc các ông sẽ suy nghĩ khác hẳn.

26. THÔNG ĐIỆP TỪ ÁI CHO NHÂN LOẠI - CUỘC SỐNG NHÂN LOẠI TƯƠNG LAI TRONG TAY BẠN
Sự hiểu biết của bạn sẽ hướng nhân loại đi vào một trong hai con đường :
- Một là an vui như thiên đàng.
- Hai là khổ đau như địa ngục.
Bạn đang đào luyện một người trở thành thiên tài nhưng quên rèn luyện lòng chân thật và từ ái. Như vậy, chẳng khác nào bạn đang đào luyện cho Ma vương, Quỷ vương bởi người tài ba lỗi lạc nhưng rốt cuộc chỉ nhằm phục vụ cho ác tâm quỷ dữ. Người không được chỉ dạy về chân thật tâm và từ ái, dần dần sẽ tự sa vào các hấp lực xấu ác, sa đọa, sẽ tự tạo địa ngục khốn cùng.
Cả nhân loại hiện nay đang tiến lần vào con đường như thế chỉ vì thiếu nền giáo dục đạo đức nhân bản.
Thảm họa này khởi phát từ ngàn xưa. Nói để rõ biết như vậy, lỗi này chẳng phải của riêng ai.
Bạn xót xa, tự hỏi : “ Ai có thể làm thay đổi thảm họa này không ? Bạn ư ? ”
Xưa kia, biết bao giáo chủ tài ba lỗi lạc ra đời cũng không khởi động được tâm thức của toàn thể nhân loại.
Ngày nay, bạn và tôi là những người thật tầm thường nhưng trong vòng 10 ngày có thể khởi động toàn thể nhân loại nhận biết việc tốt lành này !
Bạn chưa tin ư ?
Người nhận được thông điệp này, trong ngày hãy chuyển tiếp cho 30 người bạn khác.
Bạn hãy nhìn tổng thể kết thành tựu của bạn !
1 x 20 ( 1 ngày ) = 20
20 x 20 ( 2 ngày ) = 400
400 x 20 ( 3 ngày ) = 8.000
8.000 x 20 ( 4 ngày ) = 160.000
160.000 x 20 ( 5 ngày ) = 3.200.000
3.200.000 x 20 ( 6 ngày ) = 64.000.000
64.000.000 x 20 ( 7 ngày ) = 1.280.000.000
1.280.000.000 x 20 ( 8 ngày ) = 25.600.000.000
25.600.000.000 x 20 ( 9 ngày ) = 512.000.000.000
Đến ngày thứ 9 đã có 512 tỷ thông điệp được chuyển đi, thế giới không đủ số người đón nhận.
Đạo sư nói :
- Ngày nay, chuyện như vậy chẳng còn khó khăn nữa, thông tin cho mọi người rõ biết cần phải có đổi thay, vì tương lai của nhân loại, phải làm cho được như thế. Tuy nhiên, đó mới chỉ là chuyện khởi đầu việc tạo dựng sự an lành cho nhân loại, một thiên đàng tại thế sẽ khai mở !
- Chuyện kế tiếp mới đáng lưu tâm, ai sẽ là người có đủ các điều kiện để chuyển tâm thánh thiện cho thế nhân ? Đó là chuyện không dễ tầm cầu, việc đó còn là chuyện ở phía sau, nay tôi muốn nói chỉ để các ông suy tư nhận biết mà thôi.

27. TẠO DỰNG NIỀM TIN CHO NHÂN LOẠI
Đạo sư nói về cái khởi đầu từ thông điệp về chân thật tâm và từ ái :
- Các ông đã thấy rõ, với phương tiện kỹ thuật ngày nay, truyền đạt một thông điệp đến toàn thể nhân loại không còn là chuyện khó nữa. Đó là cái khởi đầu giúp mọi người hiểu rằng từ xưa tới nay, vì thiếu nền giáo dục đạo đức nhân bản, thiếu chân thật tâm và từ ái nên con người dần dần tiến sâu vào con đường xấu ác, địa ngục tự khai mở ở trần gian như vậy. Qua đó hiểu rằng, lỗi này chẳng phải tại riêng ai cả, việc cần làm là đòi hỏi cho được một nền giáo dục cân đối giữa đạo đức nhân bản với các kiến thức về khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa v.v…
- Khi đã hiểu rồi thì mọi nơi, mọi người đều có ý tốt lành, chuyển tiếp phổ biến trong mọi lãnh vực : Xã hội, học đường, báo chí, văn nghệ, mỹ thuật v.v… Khởi đầu cho những đề tài mới tập trung vào việc tạo dựng một nền giáo dục về đạo đức chân thật và từ ái. Chuyện tốt lành như vậy không ai có thể ngăn cấm nên sẽ nhanh chóng lan truyền, giúp mọi người thấy rõ chuyện cần làm, từ đó chính quyền các cấp cũng có những chuyển biến tích cực và thực hiện cải cách cho hợp lòng dân.
- Dần dần, cả thế giới sẽ ý thức được rằng một người thiếu chân thật và từ ái thì dù tài giỏi đến đâu, không sớm thì muộn cũng sẽ là tai họa cho mọi người. Bấy giờ mọi người hiểu ra rằng, để cải tạo thế giới này, con người chỉ cần chuyển đổi tâm ý chứ chẳng phải đập phá hay hủy hoại gì cả, không làm hư hại bất cứ thứ gì trong thế giới thực tại này.
Đạo sứ nói tiếp :
- Mọi người sẽ hiểu những ai đi ngược lại con đường chân thật và từ ái thì sẽ bị đào thải. Kẻ ác gian cũng hiểu như vậy nên phải chuyển tâm ý, phải từ bỏ các việc xấu ác mới có thể tồn tại. Quốc gia này không có nền giáo dục đạo đức chân thật và từ ái sẽ bị xem là đất nước của quỷ ma, sẽ gây tai họa cho nhân loại và sẽ bị cô lập, vì vậy, cũng phải chuyển hướng tốt lành. Các ông nghe như mọi chuyện dễ dàng, các điều tốt đẹp sẽ được thiết lập ngay cho nhân loại, nhưng thực tế không đơn giản và dễ dàng như vậy.
Đạo sư nói tiếp :
- Vì thế, cần phải có những người đủ đầy tâm lực, tài lực, trí lực mới có thể xoay chuyển nhanh chóng tâm chúng sanh trở lại với bản chất thánh thiện vốn có. Chuyện thiện lành đã khởi động cũng như hạt giống tốt đã gieo đi thì tự nó sẽ lan tỏa rộng ra, cái ác bị lấn áp, cái thiện sẽ tràn ngập, việc lớn sẽ thành tựu chứ chẳng phải dẹp diệt cái gì cả.
Babu suy nghĩ một chút rồi nói với đạo sư :
- Trước kia, con nghĩ đây là một cuộc chiến thiện và ác, hẳn rất khốc liệt, có hằng hà người sẽ chết, máu chảy thành sông. Nay nghe đạo sư giảng nói con mới biết không phải vậy, mà chỉ là một sự chuyển biến tâm ý, không có sự chết chóc, sát hại hủy diệt gì cả. Quả là Vi diệu pháp !
Đạo sư nói :
- Tâm nhân loại, tâm chúng sanh hay tâm người ác, người thiện gì giống như tâm của mỗi người chúng ta vậy. Một giây trước chưa hiểu biết, chúng ta nghĩ thế này, một giây sau khi đã rõ biết, chúng ta sẽ nghĩ suy khác hẳn. Ví như người hung ác, nếu trong một giây ta cho nhìn thấy địa ngục thì giây sau tỉnh lại, mọi thứ nghĩ suy, hành động đã thay đổi. Nên tôi đã nói rõ, tu học là để sáng biết, rồi tự tâm chuyển biến, chỉ là như vậy thôi, chẳng phải rất khoa học và thực tiễn hay sao !
Alen có chút ngập ngừng rồi lên tiếng :
- Tôi vừa nghe đạo sư nói : “ Người hung ác nếu trong một giây ta cho nhìn thấy địa ngục thì giây sau tỉnh lại, mọi thứ đã thay đổi ”, chuyện như vậy là thật có hay chỉ là ví dụ !
Đạo sư cười bảo Alen :
- Hôm nay sao ông có vẻ dè dặt trong lời nói vậy ? Đừng e ngại, học đạo không biết thì chân thật mà hỏi, chẳng có lỗi gì cả. Tôi vừa nói câu đó là thật nói, nhưng cái địa ngục tôi nói chẳng phải là cái địa ngục mà các ông xưa nay tưởng tượng đâu, có quỷ hai đầu, có sừng, có nanh vuốt đâu.
Đạo sư cười nói tiếp :
- Cái tôi nói còn khủng khiếp hơn nữa kìa, nhưng là cái thật có trong tâm thức các ông đều khắc ghi đầy đủ chứ chẳng đâu xa lạ, chẳng phải do tôi bày vẽ ra. Nay chỉ cho các ông cách thức lần vào mà xem lại thôi, cũng chẳng khác nào ông vừa tỉnh mộng ra vậy.
Spal có chút e dè hỏi :
- Đạo sư vừa nói có phương cách lần vào trong tâm thức để thấy lại các địa ngục vô cùng khắc nghiệt mà một người đã thật sự nếm trải. Đạo sư đã nói thì tôi tin là thật có như vậy, nhưng tôi chưa rõ vì sao không được chỉ dạy rộng rãi cho mọi người biết để chuyển biến tốt lành, có phải lợi ích thiết thực hơn không ?
Đạo sư ôn tồn nói với Spal :
- Phương cách thì chẳng khó, nhưng người thật sự tín tâm và quyết thực hành cho bằng được quả tình rất khó tìm gặp. Có lần tôi kể chuyện Phật Thích Ca khi thuyết dạy về thức tâm, tàng thức và hàm tàng thức đã nói rõ : “ Một Alahán do công phu tu tập có thể thấy biết 100 ngàn kiếp đến 400 ngàn kiếp sống hay hơn nữa, Phật thì thấy biết đến vô lượng kiếp sống ”. Nhờ thấy biết như vậy nên thật rõ biết các tội lỗi trong kiếp sống này sẽ sanh quả báo ở những kiếp sau, nghiệp quả đeo bám vay trả rất đáng sợ, khi thấy biết rồi thì mọi điều xấu ác nhỏ lớn gì cũng chẳng dám tái phạm. Do tự mình thấy biết chứ chẳng phải nghe ai kể lại nên không còn hoang mang, hoài nghi gì nữa, tức thì tỉnh ngộ và tự quay về con đường thánh thiện.
Babu nghe vậy sợ hãi hỏi :
- Như vậy con cũng từng ở địa ngục ra đây hay sao ?
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Đúng như vậy, chẳng ai trên thế gian này mà chưa một lần vào địa ngục cả, có vào rồi mới có hối cải để tiến bộ, tốt lành mà thành một con người như hôm nay ! Các ông lặng lẽ nghe, tôi sẽ nói về những cõi giới ẩn tàng hay cõi giới vô hình mà người trần tục thường đề cập tới. Các ông có đủ duyên phần mới có thể thâm nhập vào những lãnh địa như vậy để học hỏi và biết rõ các mối liên quan trong các cõi, từ đó mới có thể độ sanh một cách hiệu quả.

28. THEO CHÂN ALAHÁN MỤC KIỀN LIÊN VÀO ĐỊA NGỤC
Đạo sư nhìn qua Spal, Babu và Alen rồi nói :
- Các ông ở đây hẳn đều biết chuyện bà Thanh Đề là mẹ của Alahán Mục Kiền Liên, người đệ tử có nhiều thần thông bậc nhất trong số các đệ tử của Phật Thích Ca thời bấy giờ. Bà Thanh Đề vì thấy Sư tăng trọng đãi người có tiền của, xem thường người bần hàn nên có ý ghen ghét, đã làm thịt chó gói trong bánh đem tới cúng dường cho Sư tăng. Có ý hại người đã là phạm tội, nay có ý hại người tu hành nên sa vào trọng tội, thần thức nặng nề, khi chết rơi vào địa ngục.
Babu nhanh miệng nói :
- Con rất thích chuyện đó nên nhớ rõ, khi bà Thanh Đề chết rồi, Alahán Mục Kiền Liên xót thương mẹ, đã nhập định để dụng thần thông tìm xem mẹ đang ở đâu ngõ hầu giúp mẹ, gọi là một chút đáp đền ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ. Biết mẹ bị đọa địa ngục khốn khổ, ngài đã dụng hết thần thông cùng các phương cách để cứu mẹ. Tất cả đều thất bại, không thể giúp được gì cho mẹ, ngài bèn trở về nhờ Phật Thích Ca giúp sức.
Đạo sư cười nói :
- Đoạn đó thì ngươi biết y như kinh sách ghi chép, nhưng đoạn sau thì chắc ngươi chưa thật biết căn do mọi chuyện. Hãy lặng lẽ nghe để thật biết, đừng hàm hồ chỉ tin nghe chuyện mù mờ, huyền hoặc mà phát sanh sai trái, tội lỗi.
Babu lo lắng hỏi :
- Con biết chuyện dù có sai lệch cũng là sai trái, tội lỗi hay sao ?
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Ngươi  nghe chuyện, biết chuyện thì không có gì lỗi cả, nhưng vì không thật biết nên tâm phát sanh các việc làm sai trái ở phía sau, tội phát sanh từ đó. Căn do cũng vì mù mờ, không thật biết. Hãy lắng nghe cho rõ.
- Alahán Mục Kiền Liên bạch với Phật mọi nghĩ suy của mình, sau cùng xin Phật ra tay cứu giúp mẹ mình. Phật Thích Ca bảo : “ Này Mục Kiền Liên, ta cùng thập phương chư Phật cũng không thể cứu được mẹ ông nhưng ta chỉ cho một phương cách giúp mẹ ông giải ách nạn, hãy nghe cho rõ, ghi nhớ và làm cho được như vậy. Ngày tự tứ là lúc chúng Tăng quy về đông đủ, ông phải tín tâm, cẩn trọng, vén khéo lo vật thực cúng dường cho thập phương Tăng. Nhờ lực của thập phương Tăng mà mẹ ông sẽ thoát được ách nạn.”
Đạo sư ôn tồn nói tiếp :
- Phật chỉ dạy phương cách cho Alahán Mục Kiền Liên cứu mẹ chẳng phải vì vị tình bà Thanh Đề là mẹ của Mục Kiền Liên, mà vì tất cả chúng sanh hiện tại và sau này. Cơ duyên có Mục Kiền Liên hỏi nên Phật chỉ dạy cho phương cách cứu mọi người đang bị đọa trong địa ngục, có cơ thoát được tai nạn hiện tại và mai sau.
Babu lo lắng nói :
- Con đọc kinh chỉ thấy Phật dạy vén khéo lo vật thực đủ đầy để cúng dường cho thập phương Tăng ! Đâu có nói phương cách gì khác đâu ?
Đạo sư nói :
- Đúng là như vậy, phương cách Phật chỉ dạy ẩn tàng trong việc lo đủ đầy vật thực cúng dường cho thập phương Tăng là ý nghĩa như vầy : “ Phải chăm lo đầy đủ vật thực để Tăng chúng ở thập phương trời còn có thể sống được và tu hành, thập phương Tăng còn sống, còn tu tập thì giáo pháp Phật còn ở khắp mọi nơi. Một người bị đọa địa ngục, tội đã đền trả, khi luân hồi chuyển kiếp dù sanh ở phương trời nào cũng còn có cơ hội thấy Tăng, còn thấy biết được giáo pháp Phật, tự đó mà tu tập tinh tấn, thăng tiến và có duyên thoát được những tội lỗi, ách nàn.”

29. LỄ CÚNG DƯỜNG TĂNG LÀ CÚNG DƯỜNG PHẬT PHÁP
Đạo sư nói rõ về cúng dường tăng :
- Phật dạy phải lo đủ đầy cho thập phương cùng ý nghĩ lo giúp lưu truyền Phật pháp. Cho nên, cúng chùa chẳng phải vì chùa lớn hay nhỏ, cúng dường tăng chẳng phải vì tăng giỏi hay dở, tăng ưa hay ghét, cũng chẳng phải vì chùa và tăng có giúp mình, giúp gia đình mình hay không, mà phải hiểu rõ cúng dường chư Tăng và cúng chùa có ý nghĩa cao cả tột cùng là để bảo tồn và lưu truyền Phật pháp, một việc làm cao quý nhất trong đời người làm Phật sự.
Babu nói với đạo sư :
- Nay con được hiểu rõ thêm về ngày lễ Vu lan, chẳng phải riêng báo đáp hiếu nghĩa với mẹ cha, còn là ngày vén khéo lo cho Sư tăng cũng là để lưu truyền Phật pháp, báo đáp nghĩa ơn chư Phật vậy, một ngày lễ có ý nghĩa cao đẹp, bao trùm cả đời và đạo.
Đạo sư khích lệ Babu :
- Ngươi quả là sáng ý, hiểu được như vậy thì dù chùa có hưng thịnh hay suy sụp, sư tăng có sáng biết hay không cũng chẳng phải là chuyện để tâm, chỉ một lòng vì Phật pháp là trọn đời, tròn đạo !
Alen như chợt nhớ ra chuyện gì bèn hỏi đạo sư :
- Hôm trước đạo sư có nói : “ Khi lâm chung phải đối mặt với Diêm vương, tội nào có chối, có né đi đâu cho được”, tôi suy nghĩ và không thể hiểu được điều đạo sư nói, khi gần chết phải đối mặt Diêm vương là như thế nào ? Thật có một Diêm vương đối mặt xét xử tội mình ư ? Tôi thật hoang mang, có chút kinh sợ, thực hư ra sao xin đạo sư chỉ dạy thẳng cho.
Đạo sư hỏi lại Alen :
- Tôi hỏi ông người ta bày vẽ ra Diêm vương xét xử để hù dọa người thế gian ư ? Hay khuyến dụ để người đời đừng làm chuyện ác độc, giống như người lớn hù dọa trẻ con có ma vậy ư ? Nếu nghĩ là có Diêm vương thì ông hình dung Diêm vương ra sao ? Ông cứ chân thật mà nói !
Alen ngập ngừng nói :
- Kính đạo sư, nói tới Diêm vương là có ngụ ý khuyến dụ người độc ác, hung dữ phải dè chừng, có thể né tránh được tội tù thế gian nhưng trước sau gì cũng phải chết, khi chết việc đầu tiên là đối mặt với Diêm vương xét tội, nếu có hoài nghi cũng biết lo sợ thì các việc hung ác sẽ giảm đi. Tôi chỉ nghe và nghĩ như vậy, nhưng thật có như vậy hay không thì bản thân chưa được xem qua một tài liệu đáng tin cậy nào.
Alen nói tiếp :
- Tôi có xem qua một tập tranh vẽ hình phạt nơi 9 tầng địa ngục, diễn tả Diêm vương như một quan tòa oai nghiêm, uy quyền như một ông vua, hai bên có quỷ sứ mặt mày hung tợn, cầm chỉ ba hay gươm đao chờ ra hình phạt đối với tội nhân. Tôi từng nghĩ tới những chuyện như vậy, nhưng chưa lần nào có ý nghĩ là chuyện thật có hay không thật có.
Đạo sư nhìn mọi người rồi nói :
- Tôi biết các ông là người Âu, lại là những nhà khoa học tiếng tăm lẫy lừng nên luôn có sự thận trọng khi quán xét và quyết định nói ra một điều gì có thể phương hại cho một cá nhân hay phát sanh tai hại cho quần chúng. Điều đó tốt thôi, chẳng có gì sai trái cả.
Đạo sư nghiêm trang nói tiếp :
- Nhưng có sai trái ở chỗ, nếu không quyết tra cứu cho cùng tận, chính cái lập lửng như vậy phát sanh nhiều tai hại không nhỏ. Ví như các ông đã có cuộc hành trình về phương Đông tìm hiểu về tâm linh, đã tín tâm thì mới dám xả bỏ mọi thứ để đến đây tầm cầu học đạo với tinh thần khoa học. Hoài nghi mà không tra cứu, tìm hiểu thì thật chẳng đúng pháp học, chuyện đời hay chuyện đạo gì cũng vậy. Các ông xứng đáng được nghe biết cái chưa từng biết này, các ông sẽ được xâm nhập nơi có một Diêm vương mà các ông luôn muốn biết !
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Các ông phải cẩn trọng nhận biết vì sau này khi đi chỉ dạy đạo pháp, người ta sẽ hỏi các ông : “ Có Diêm vương hay chẳng thật có Diêm vương ? ”. Nếu các ông trả lời thật có Diêm vương như mọi người nghĩ thì rõ ràng không đúng nghĩa lý các pháp Phật đã chỉ dạy. Nếu các ông trả lời không có Diêm vương thì quả tình sai trái trăm bề, không thể thứ tha được.
Babu kiên nhẫn nghe tới đây vụt hỏi đạo sư :
- Nghe đạo sư nói thì hiểu như thật có Diêm vương, nay lý gì nói thật có cũng không xong, nói không càng sanh lỗi. Thật tình con đang hoang mang, càng hoang mang hơn nữa !
Đạo sư đỡ lời Babu :
- Ngươi đã tập kiên nhẫn thì phải kiên nhẫn cho tới cùng. Ngươi đã kiên nhẫn nghe thuyết giảng, ta chưa dạy hết lời, hết ý thì lẽ ra ngươi phải tiếp tục kiên nhẫn nghe cho ra như thế nào ! Hiểu hay không hiểu, thuận hay không thuận thì có ý kiến, như thế mới đúng phép kiên nhẫn học đạo ! Ngươi phải ghi nhớ điều quan trọng đó.
Babu cúi đầu nhận lỗi :
- Xin lỗi đạo sư, con thật sai trái, không phải phép, con sẽ ghi nhớ điều quan trọng này khi học đạo.
Đạo sư nói tiếp :
- Ở ngoài đời cũng vậy, nếu thiếu kiên nhẫn học tập thì không thành tựu được việc gì cả ! Phật cũng thường nhắc nhở khi thuyết giảng : “ Trong đời không có gì lớn mạnh bằng nhẫn, không có gì sáng đẹp bằng nhẫn, không việc gì không thành tựu khi có nhẫn ”.
Đạo sư quay lại giảng tiếp chuyện “ Thật có Diêm vương hay chẳng có Diêm vương ” :
- Các ông phải hiểu, nói tới Diêm vương cũng như nói tới chuyện thiên đàng hay địa ngục vậy. Phải hiểu bằng dạng tâm thức chứ không phải dụng trí biết thế gian rồi hình tượng ra một Diêm vương giống như một vị vua uy quyền, có đội mũ cao như vua Tần Thủy Hoàng, ngồi trên bệ cao như ngai vàng, có quỷ dữ hầu cận hai bên, để xét xử tội lỗi của chúng sanh. Đó là các ông hình tượng hóa như cái thấy biết trước mắt trong đời, là điều không thật.
Đạo sư cẩn trọng nhắc nhở :
- Đây là vấn đề các ông phải lưu tâm, phải hiểu tận tường thì mới có thể giảng nói không sai trái, bởi lỗi đã phát sanh thì tội không thể né tránh được.

30. NHẬN DIỆN DUNG MẠO DIÊM VƯƠNG
Đạo sư giảng nói tiếp “ Thật có Diêm vương hay chẳng có Diêm vương ” cho Babu, Spal và Alen :
- Với người thường phàm, người ta hay dụng hình ảnh để diễn đạt, chẳng hạn như trong truyện “ Tây du ký ” có Tôn Ngộ Không, Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng là nhằm vào người thế tục có căn cơ thấp kém, không thể nói cho họ hiểu được những vấn đề trong thức tâm nên phải dụng những hình tượng rõ ràng như vậy. Khi dụng cách này để giảng dạy đạo, người ta muốn diễn tả cái trí lăng xăng biến hóa như Tôn Ngộ Không, cái tâm hiền hòa như Tam Tạng, cái dục luôn thôi thúc như Bát Giới, cái sân giận, nóng vội như Sa Tăng. Riêng những người có căn cơ cao hơn, biết nhiều về giáo pháp Phật, biết thiên định thì sự chỉ dạy có nhiều khác biệt và thâm sâu hơn.
Đạo sư nói :
- Phật từng thuyết dạy về Đệ bát thức, về Hàm tàng thức, về Tàng thức, là những cái thật có trong mỗi con người, chẳng phải cái ở đâu xa xôi cả. Thầm thầm, lặng lặng, quay trở về với tâm thức mình, dụng các phương cách Phật chỉ dạy mà lần ra, cho được sáng biết. Chẳng khác kho chứa hàng ở nhà mình, vì chứa đầy các thứ tạp nhạp, che lấp mất món đồ quí giá, nay lần bỏ hết các cái tạp nhạp : tham, sân, si, lục dục, thất tình, thì thấy lại cái quí báu, sáng biết của mình, chứ chẳng có chi là lạ cả !
- Khi một người lâm chung, sắp sửa lìa đời thì dòng Tàng thức ghi khắc những chuyện của cả đời người trong hiện kiếp sẽ chuyển qua dòng Hàm tàng thức, dòng tâm thức này nối tiếp ghi khắc mọi việc từ vô lượng kiếp sống của một đời người. Người đời hay gọi đó là lúc “hồi dương”, lúc thấy lại mọi việc đã qua trong kiếp sống. Người hung ác thấy lại các chuyện độc ác mình đã làm nên kinh hãi, rên la, gào thét trước khi ra đi. Người hiền lành, từ ái thấy lại những chuyện an lành, hạnh phúc đã có trong đời, tâm thức luôn an ổn, thanh thản, vui vẻ ra đi.
- Đó thật sự là lúc con người đối mặt với Diêm vương. Tâm thức một người thu nhận rõ ràng, minh bạch mọi thứ dù ta có biết hay chẳng lưu tâm thì tâm thức cũng ghi nhận đủ đầy, khi ngủ hay thức cũng liên tục thu nhận và lưu giữ mọi thứ như vậy. Quả tình một Diêm vương không có chỗ nào sai lệch, dù việc lớn hay nhỏ, đêm hay ngày, thiện hay ác, tham sân si gì đều ghi khắc đủ đầy nơi dòng tâm thức đó.
Đạo sư nói tiếp :
- Nói nghe như có thứ, có lớp các việc diễn biến một cách chậm rãi cho dễ hiểu, thực ra sự vận hành của tâm thức cực kỳ nhanh chóng, kết nối, sàng lọc, vận hành liên tục như vậy đã từ vô lượng kiếp, không có điều gì sai lệch, nên kinh sách hay nói là công minh, rõ ràng.
Đạo sư nhìn Spal, Alen và Babu, quán xét và nói :
- Tôi nói với các ông chuyện như vậy chẳng phải để các ông rõ biết nó ra sao, vì thật biết cũng không thể được, đừng nóng vội, bởi muốn thật biết quả là chuyện không tưởng. Ví như nhà bác học nói về sự vận hành của các hạt điện tử đã là khó nghe, khó hình dung, nay nói đến siêu hạt điện tử hay nói tới cái cùng tột là loại hạt “ chưa rõ biết ” mà hiện tại có những người Âu, Mỹ đặt tên là “ hạt của Trời ”. Quả là vô phương hình dung cho ra được đó là cái gì đối với người thế gian.
- Đó là nói về cái dung mạo mà con người muốn hình dung cho ra. Nói tới cái vận hành thì càng khó biết cho tường tận được. Mọi thứ như vậy, chúng như hòa vào nhau cũng không phải, kết hợp với nhau cũng không phải, liên kết hay trượt lên nhau cũng không phải. Phật đã từng thuyết khi đạt đạo : “ Hoát nhiên, một khảy móng tay, thấy biết thập phương thế giới ”, là một cũng không phải, là hai cũng không thể lấy ra như vậy được.
- Nói rõ ràng, để mọi người đừng phí công vô ích vào chuyện truy tìm cho thật biết những việc như vậy. Chuyện như vậy cũng chẳng phải chuyện đáng nói ra. Nay bày ra để chỉ cho các ông biết dụng tâm sao cho không va vấp những cái vận hành tự nhiên muôn thuở của trời đất xưa nay hay còn gọi là luật Nhân quả của trời đất. Pháp vi diệu chẳng phải ở nơi pháp mà chính ở phương cách người dụng cho có hiệu quả ! Nói tới đây, các ông cũng chưa thấy được vấn đề cần biết để dụng cho mình, cho đời, các ông phải kiên nhẫn theo dõi.
- Khi lâm chung, con người thấy lại những điều oan nghiệt của mình bằng thần thức chứ chẳng phải bằng mắt, nhưng cũng y như việc đang xảy ra trước mắt vậy. Ví như ngày xưa có người bị người khác ức hiếp, lòng chưa nguôi oán hận, nay thấy lại hình ảnh đó, tức thì chạy theo để báo thù, báo oán. Chỗ này là mấu chốt.
- Kinh sách hay diễn tả người chết phải “qua cầu Nại Hà”. Cay cầu thử thách này quả là mấu chốt cuối cùng của một đời người chuyển kiếp, tái sanh. Bao nhiêu thứ tình tiền, danh lợi, tham sân si, sục lạc, oán thù trong đời như một cuốn phim quay lại trước mắt, còn vướng mắc chuyện gì là chạy theo, những hấp lực như vậy tự trì kéo theo nhau nên phải rơi rớt lại dòng sông Ái Hà khổ đau, phiền não.
- Những người minh triết đã lần qua dòng tâm thức như vậy, dụng chỗ mấu chốt này để chỉ dạy cho chúng sanh biết dụng tâm, tạo duyên lái dòng tâm thức sao cho qua cầu, đến bờ an lành.
Đạo sư nghiêm trang nói :
- Các giáo chủ không thể giảng nói cho chúng sanh rõ được các chuyện tâm thức như vậy, chỉ còn dụng cách thức sám hối, phép khai tội, rửa tội, quán xét tâm, Minh sát tuệ, Nhập tâm hành thiện pháp, cùng môt mục đích là tự mình phân xử, phán xét, chuyển đổi tâm ý xấu ác, chân thành nhận biết sai trái, quyết ý không tái phạm, xa rời các điều xấu ác v.v… Thần thức khi thành tâm sám hối đã ghi khắc đủ đầy thức tâm đã cải sửa như vậy. Nhờ vậy, sau này dù ở nơi đâu khi phải đối mặt với những hình ảnh xấu ác, cái quyết định không theo, xa rời xấu ác đã sẵn có nên không bị hấp lực xấu ác trì kéo. Vượt cầu Nại Hà, thoát nàn là nhờ như vậy !
- Pháp sám hối chỉ dạy nhớ lại những lỗi lầm của mình, biết là sai trái, thành tâm hối cải, quyết không tái phạm, không chạy theo các chuyện xấu ác như vậy nữa. Thần thức đã ghi khắc và luôn có cách ứng xử khuôn mẫu như vậy. Khi thần thức quay lại gặp chuyện như vậy tức thì đã có sẵn cái khuôn mẫu để ứng đáp.
- Dụng tâm pháp để lái chuyển dòng tâm thức như vậy chứ chẳng phải sám hối rồi thì tội sẽ mất, không thể dẹp hay diệt được bất cứ cái gì đã ghi khắc trong tâm thức.
Đạo sư cẩn trọng tóm ý :
- Trong tâm thức các ông, nay lại có thêm một Diêm vương chẳng phải có dung mạo hung dữ, dễ sợ nhưng xét xử minh bạch, rõ ràng, không sai chạy mọi lỗi lầm nên còn đáng sợ hơn nữa. Không thể lý luận biện tài hay dụng chút phúc đức đã có thể chạy tội, xóa lỗi. Phước thì được hưởng, tội thì phải trả, Nhân quả rõ ràng, công minh như vậy. Phật Thích Ca cuối đời còn phải trả nghiệp báo sau cùng, đâu thể lấy công đức của Phật ra để khấu trừ được.

31. DỤNG SÁM HỐI PHÁP - CHUYỂN ĐỔI VẬN MỆNH ĐỜI NGƯỜI
Đạo sư giảng nói về pháp Sám hối :
- Lý gì một người khi vào tụ tập ở thời Phật Thích Ca phải trải qua ba tháng thử thách và duy nhất chỉ được dạy cho pháp Sám hối ? Các ông phải lưu ý, thông thường ai cũng cho Sám hối là việc quá bình thường nên có ý nghĩ tu là tu cái gì cao xa, lớn lao chứ pháp Sám hối thì có gì sâu xa, có gì vi diệu đâu mà phải học. Đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Một người đã tu tập mấy chục năm mà không sáng biết, không tiến bộ được cũng còn chưa thật biết chỉ vì chính mình chưa thành tâm sám hối. Quả tình pháp Sám hối thậm thâm và vi diệu không cùng.
Babu hớn hở ra mặt nói với đạo sư :
- Thưa đạo sư, các chùa ở đây cũng thường tổ chức lễ Sàm hối, có phải đúng là pháp Sám hối mà đạo sư đề cập hay không ?
Đạo sư ôn tồn bảo :
- Sám hối có nghĩa là quán xét lại mình, thấy đã từng làm chuyện sai trái, nghĩ sai trái, nói lời sai trái, nay hiểu được những chuyện sai trái như vậy sẽ mang lại cho mình nhiều nghiệp chướng khổ đau, phiền não nên thành tâm hối cải và quyết không tái phạm nữa.
- Về pháp Sám hối, tôn giáo nào cũng chỉ dạy những điều tốt lành như vậy nhưng có khác biệt nhau ở chỗ thực hành pháp Sám hối ra sao. Chính phương cách thực hành có mang lại hiệu quả hay không mới là chuyện đáng lưu tâm. Nếu tôi không giảng nói rõ ràng thì các ông làm sao biết là nó quan trọng đến độ nào, nếu cứ lơ là đọc lời sám hối như đọc kinh cầu nguyện, được thì tốt, không được thì thôi, thì dù các ông có dự bao nhiêu lễ Sám hối cũng là chuyện phí công mà thôi. Vì vậy, trước tiên phải biết rõ mình thành tâm sám hối điều gì, hiểu rõ vì sao phải dứt bỏ, không cho tái phạm nữa.
Đạo sư tiếp tục :
- Đây là một pháp học để thay đổi cả vận mệnh của một đời người, từ đen tối, u ám trở nên tươi sáng, tốt đẹp. Chẳng phải là chuyện cầu xin trời đất nào ban phát cho mà phải tự tâm, tự thực hành. Có thành tâm tự sám hối thì sẽ có thành quả, không luận người trẻ hay già, nam hay nữ, đang theo tôn giáo nào, dù ngu mê hay sáng biết, hiền lành hay hung dữ, nếu chân thật tâm thực hành thì đều có kết quả tốt đẹp như nhau.
- Tự mình thành tâm sám hối là đã hạ quyết tâm rời xa con đường xấu ác, điều sai, việc trái. Thành tâm tự sám hối có cùng ý nghĩa chọn con đường an lành, thánh thiện, rời bỏ con đường khổ đau, tù tội dẫn tới địa ngục, chuyển đổi cuộc đời mình lần tới chỗ an vui, hạnh phúc. Sám hối theo nghi lễ, theo hội đoàn là phương thức nhắc nhở mọi người phải biết tự tâm sám hối, phải biết hối lỗi và dè chừng các điều xấu ác mà xa rời.
Đạo sư lưu ý :
- Sau này khi các ông đi độ sanh, nếu thấy người nghèo cần gạo, người bệnh cần thuốc men, trước khi tạm giúp cho qua cơn đói khác, bệnh đau, sau cần giảng giải cho họ hiểu là cải đổi vận mệnh cuộc đời thì họ mới hết đói nghèo, khốn khó. Làm được như vậy mới trọn ý nghĩa của việc giúp và cứu. Pháp Sám hối làm được các việc như vậy ! Người ta thường nói : “ Không lo cho người chưa biết sám hối, chỉ lo cho kẻ biết sai trái mà không chịu tu sửa, cửa địa ngục cận kề … ”
- Pháp Sám hối còn giúp con người làm được nhiều điều vi diệu khác như :
  • Giúp người nghèo đói trở nên sung túc.
  • Giúp người hung dữ trở nên hiền hòa, ai cũng mến thương.
  • Giúp người u tối trở nên sáng biết, bớt khổ phiền.
  • Giúp người thất bại trở nên thành công, giàu sang thánh thiện.
  • Giúp người tu hành không tiến bộ sẽ trở nên sáng biết, minh triết.
  • Giúp người yểu số cải đổi thành thọ mạng.
Mọi thứ liên quan xấu tới con người, pháp Sám hối đều giúp đối trị được cả !
Spal nghe tới đây vui thích không cùng nói :
- Đạo sư nói tới đây, tôi nghe như một phép lạ, tôi nghĩ dẫu có phép thần thông cũng chưa thể làm được nhiều điều như vậy, nay chỉ có một pháp Sám hối mà thành tựu được biết bao việc, quả là vi diệu pháp !
Đạo sư ôn tồn bảo :
- Tôi chưa chỉ dạy lời nào gọi là lung linh, phù phép cả. Các ông an tâm, lặng lẽ nghe tự khắc sẽ hiểu được tính khoa học và thực tiễn của việc áp dụng pháp Sám hối vào đời sống, bất cứ ai thành tâm và tự thực hành cũng đều thành tựu. Vạn pháp tự nó luôn như vậy, không thiện ác, không tốt xấu, không hay dở gì cả. Cái vi diệu của nó nằm ở chỗ người biết vận dụng nó mà thôi !
- Ví như từ bao đời các quy luật cùng mọi thứ vật chất luôn tồn tại trong thiên nhiên nhưng ngày nay, con người biết vận dụng để xây dựng nhà cao tầng, chế tạo máy bay, hỏa tiễn, phi thuyền thám thính không gian, v.v… Biết bao điều kỳ diệu, phi thường đã ra đời, có phải do phép thuật làm đâu ! Chỉ là biết vận dụng mà thành tựu.
- Sự vận dụng vi diệu các vật thể bên ngoài mang lại thành quả như vậy. Biết vận dụng vi diệu các thứ trong thâm tâm cũng sẽ thành tựu như vậy. Thành hay bại là do người vận dụng chứ chẳng phải do vật hay do pháp. Biết phương cách vận dụng thì ai làm cũng sẽ được như vậy, chẳng có gì lạ lùng, huyền hoặc cả.
Đạo sư nói tiếp :
- Ví như người hung dữ, tham lam, rượu chè, cờ bạc bị mọi người khinh khi, xa lánh. Khi có người làm cho thức tỉnh, nhìn rõ thực tại đời mình thật quá tệ hại, rồi vận dụng pháp Sám hối một cách thực tiễn, thấy mọi việc xấu ác như vậy là rời xa. Khi đã dứt bỏ cờ bạc, rượu chè, tham lam, hung dữ, người đó trở nên hiền hòa, chí thú làm ăn. Người làm được như vậy có đáng cho mọi người khâm phục và mến thương không? Nào có gì huyễn hoặc, phù phép trong đó !
Babu xin có ý kiến :
- Kính đạo sư, kinh sách dạy sám hối có đầy khắp nơi, chỉ dạy đủ mọi kiểu cách, từ cúng tụng, lễ bái, nhập thất đến khóa sám hối … Tất cả đã có từ mấy ngàn năm tuổi rồi nhưng con đâu thấy có kết quả gì là vi diệu đâu ?
Đạo sư hiểu ý Baby, ôn tồn nói :
- Ngươi không thấy biết cũng phải vì một ngàn người sám hối thì mới có một người đạt được cái vi diệu, chẳng nói ra thì ai biết được.
Babu càng thêm thắc mắc :
- Khi nãy con nghe sư phụ nói ai làm cũng được, nay đạo sư nói một ngàn người có một người thành tựu được, vì sao như vậy ?
Đạo sư hiểu ý Babu nói :
- Ngươi có cái nghe và quán sát bén nhạy, nhưng chưa rõ vì sao cũng là chuyện thường tình thôi, ngươi mà biết được căn do mới là chuyện lạ. Chẳng có chuyện gì sâu xa cả, chính vì con người không thật tín tâm , làm cho có lệ, không có ý nguyện, không có quyết tâm nên mới ra cớ sự như vậy. Ngay như chính bản thân ngươi, cái ngày mà ta khởi dạy cho ngươi pháp Sám hối, khởi đầu cai nghiện rượu cho ngươi, nếu ta không khóa cửa phòng nhốt ngươi, không nhập tâm nhìn ngó ngươi thì yểu mạng ngươi có qua khỏi không ? Biết rõ ngươi không thể tín tâm và cũng không đủ quyết tâm nên phải dụng cách đối trị như vậy.
Đạo sư ôn tồn nói tiếp :
- Ngươi đừng ái ngại chi cả ! Một ngàn người mới có một người không có minh sư kề cận, nhìn ngó mà thành tựu được cái vi diệu. Đó là ta nói một ngàn người đã được minh sư truyền pháp mà không kề cận trông nom còn ra cớ sự như vậy. Nay không có minh sư, không thật rõ phương pháp, dù triệu triệu người cũng không ai có thể thành tựu được, chẳng thể tự nghĩ suy làm giông giống mà được.
Đạo sư nói tiếp :
- Trong vạn pháp thì pháp Sám hối đi đầu, đi đầu chẳng phải là pháp hay cao tột mà là pháp đầu tiên nhập môn, nếu qua không được, sám hối không thông, thì dù có học vạn pháp cũng là thừa thãi, vô ích mà thôi.
- Nên phải chú tâm vào cái khởi đầu học pháp Sám hối. Phải một mình tìm nơi vắng vẻ, lặng lẽ ôn lại đời mình, đã làm gì sai trái, đã nghĩ gì sai trái, nói lời gì sai trái, biết điều đó sai trái là căn do làm vẩn đục thân tâm, sẽ rơi vào ngục tù phiền não. Tội lớn, sai trái lớn thường nhớ ra trước, truy lần ra cho đến tận ngày xa xưa còn nhỏ, bẻ phá cây cỏ, đánh đập vật nuôi, chửi bới nặng lời, … Tất cả đều là những sai trái, nhớ được việc gì, biết là xấu ác, biết là sai trái thì quyết tâm sám hối, không cho tái phạm.
- Trong ngày, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, khi vừa phạm sai trái là nhận biết và sám hối ngay lúc đó, quyết không cho tái phạm nữa. Làm được như vậy là đã thuần thục pháp Sám hối. Thành tâm tu sửa, sám hối là thực tâm làm cho chính mình tiến bộ dần, mình làm mình biết, chẳng phải làm để ai chứng giám cả.
- Quyết sám hối là quyết xa rời xấu ác, là đã bước vào con đường thánh thiện. Đừng khù khờ, nóng vội, đọc tụng luôn miệng theo văn tự “quyết tâm tội gì cũng sám hối, cũng từ bỏ ” là chuyện làm hình thức. Nếu làm như vậy mà có hiệu quả, tội nào cũng hết thì cả thế gian này đã thánh thiện hết rồi !
Đạo sư giảng giải :
- Tâm chuyển là tướng trạng chuyển, tự mình sám hối đúng pháp như vậy, bao nhiêu tướng trạng xấu ác trong thân cũng rơi rụng dần, gương mặt trở nên hiền hòa, thân thể khỏe mạnh, không bệnh đau, mọi tai ương nối tiếp rơi rụng. Thân an, tâm an, cuộc sống trở nên an vui, hạnh phúc.
- Phật dạy xa rời mười điều xấu ác là được thập thiện, được vào cõi trời. Nay miên mật sám hối, xa rời mọi điều xấu ác là có được hằng sa cái thập thiện thì cũng rõ biết mình sẽ được về đâu. Chẳng là vi diệu lắm sao !

32. SÁM HỐI CÁI KHỞI ĐẦU ĐỐI DIỆN TÂM
Đạo sư căn dặn cẩn trọng :
- Tôi nhắc lại với các ông bài pháp Sám hối nhiều lần vì nó rất quan trọng cho mình và cho người, giúp mình và giúp người thật hiệu quả khi còn sống và cả khi chết nữa. Pháp Sám hối là pháp thực hành dễ làm, dễ chỉ dạy, nghe hiểu là làm được, không đòi hỏi một nghi thức lễ bái nào cả. Người già yếu, bệnh tật chẳng cần rời khỏi chỗ nằm, thành tâm sám hối là có hiệu quả. Quyết tâm, miên mật sám hối, cái vi diệu sẽ thấy được trước mắt, ngay trong hiện kiếp, chẳng phải ở xa xôi đâu cả.
Đạo sư nói tiếp :
- Nói từ Sám hối để cho dễ nghe, dễ hiểu, thật ra nó còn hàm chứa trong đó pháp đối diện tâm, chuyển tâm pháp v.v… Sám hối là khởi đầu đối diện tâm mình, vận dụng ý để truy tìm những lỗi lầm trước đây của mình, một lỗi lầm từ chỗ xa xưa vừa nhớ, vừa ló ra là nhận biết, nay chỉ còn việc quyết định lấy hay bỏ mà thôi. Xét suy ngày xưa mình ngu mê gây ra biết bao sai trái, tội lỗi, hiểu rõ gây tội thì phải đền trả, không thể né tránh đâu được, Phật còn nghiệp thì cũng phải trả kia mà ! Hiểu rồi, thành tâm tự quyết không cho tái phạm như vậy nữa.
- Việc sám hối đơn giản như vậy, có thể thực hành ở mọi nơi, đi đứng ngồi nằm đều được. Khi chẳng bị ai quấy rầy là có thể nhập tâm, truy tìm tội lỗi của mình để tự sám hối. Quyết tâm sám hối là quyết tâm từ bỏ cái xấu ác, là chuyển tâm ý xấu ác qua tâm ý thánh thiện. Phải hiểu rằng chẳng phải sám hối rồi thì các tội lỗi mình đã gây ra đã được dẹp, diệt hay được xóa sạch, không ai có thể xóa tội hay tha tội cho mình được cả. Ví như trong đời đi cướp của giết người, hôm nay có thể che đậy, được người quen thân lờ đi, nhưng mai kia người khác phát hiện thì vẫn bị mang ra xét xử về tội lỗi đã gây. Chuyện thế gian còn công minh như vậy kia mà !
Đạo sư nêu một ví dụ khác :
- Ví như trẻ con hay đánh lộn, gây thương tật, khuyên trẻ đừng đánh nhau vì hại mình và hại cả người khác. Trẻ hiểu rồi quyết tâm không đánh nhau nữa nên không bị thêm các thương tật mới, nhưng thương tật cũ thì vẫn còn đó. Nên hiểu rằng chẳng phải sám hối rồi thì các tội lỗi cũ bị tiêu diệt hay mất đi được. Lúc gây tội ai cũng khinh khi, ghét bỏ, nay đã sám hối và chí tâm làm chuyện tốt lành, cái tốt lành lớn dần che lấp các tội lỗi cũ nên được mọi người thương mến, nhưng chẳng phải vì vậy mà người ta quên mất các sai trái xa xưa của mình.
- Ví như ngày xưa nhìn thấy tiền vàng là phát sanh ý tham, muốn cướp lấy cho mình, nay hiểu đó là sai trái thì dù tiền vàng có ở trước mắt nhưng thần thức chỉ nghĩ đến các điều tốt lành nên ý xấu ác không chen ra được để gây tội nữa, chứ không phải ý gian ác đã bị xóa sạch rồi.
- Cho nên, nhiều người tu hành mấy chục năm, lơ là tu tập pháp sám hối cũng còn quay lại tham tiền, tham sắc, gây tội đến phải ra tòa. Chuyện như vậy đầy khắp, căn do rõ ràng như vậy. Nếu không quyết tâm xa rời cái xấu ác, làm chuyện tốt lành thì đến lúc nào đó có duyên khởi, cái xấu ác cũng quay lại gây lại cho ta.
Đạo sư giảng thêm :
- Ngày xưa xấu ác, tâm loạn động, hung dữ, lòng luôn oán thù, ghen ghét, mưu tính đủ điều đến nỗi ăn không ngon, ngủ không yên. Tâm như vậy nên thân tàn tạ, tướng trạng xấu xí, khó nhìn, yểu mệnh hiện rõ trên cơ thân, người biết quán xét căn cơ nhìn là biết yểu tướng.
- Khi đã quyết tâm sám hối, tâm dần dần an tịnh trở nên hiền hòa, từ ái thì tướng trạng nơi thân cũng chuyển đổi theo, trở nên tốt đẹp, nhu nhẫn, ưa nhìn. Tâm an, thân an, vẻ mặt hiền hòa, tướng mạo thung dung tự tại, bệnh tật tự rơi rớt, dù có yểu số cũng chuyển thành thọ mạng. Nào phải chuyện huyễn hoặc hay có phù phép gì đâu, chẳng là rất thực tiễn đó sao !
Alen lặng lẽ nghe, có chút suy tư vội hỏi :
- Kính đạo sư, như vậy mình sẽ ghi chép, in ấn các điều vừa nói cho mọi người đọc biết, mỗi người đều biết, đều thực hành tu tập thì thế gian này chẳng là một thiên đàng tại thế sao ?
Đạo sư cười bảo :
- Nhiều người có cùng ý nghĩ như ông vậy, in ấn kinh sách đầy khắp, người nhận được cũng xem, cũng tu tập, thấy vui, thấy thích nhưng rồi cũng đâu vào đó.
Babu nghe như rối trí nên lên tiếng :
- Thật nhiều chuyện như thật, như giả trong đó, xin đạo sư chỉ dạy cho. Những căn do gì mà thế gian luôn điên đảo như vậy.
Đạo sư ôn tồn nói:
- Một ít người sáng biết ra đi, có trăm triệu người ngu mê chuyển kiếp tái sanh tới. Người ngu mê mà không điên đảo mới là chuyện lạ, thế gian là thường hằng như vậy, biết rồi thì chẳng có gì ngạc nhiên cả.
Đạo sư ôn tồn nói tiếp :
- Phật từng dạy cho chư Bồ tát : “Vạn pháp đều phải học, không học tức chẳng biết, không biết tức nghĩ suy, hoài nghi, từ hoài nghi sẽ thối chuyển tâm, là tự lấy cái tu mà hại lại chính mình, không những các ông hại các ông mà còn làm thương tổn cho chúng sanh nữa. Các ông phải biết, việc đã quán xét tốt lành rồi, làm thì thung dung tự tại mà làm, phát ý so đo, mong cầu ơn nghĩa, nghĩ suy cho thật biết căn do, là tự mình hại mình mà thôi”. Đó là mấu chốt Phật dạy để chúng sanh tháo bỏ cái khổ, cái phiền lụy phát sanh do nóng vội, phát ý mong cầu của mình.
- Ví như người đi cứu giúp mà mong người cám ơn, mang ơn, người ta không cám ơn, không mang ơn, ngươi thấy chạm tự ái, buồn giận rồi oán ghét lại người đó, thậm chí còn oán hận cả thế gian này sao lại quá vô tình. Rõ ràng, ban đầu thì có từ ái muốn giúp người, chỉ vì mong cầu chuyện ơn nghĩa đáp đền nên phước chưa thấy tới mà tội lỗi trong tâm thức đã phát sanh, cũng bởi có ý so đo, mong cầu.
Đạo sư kết luận :
- Các việc trong đời hay đạo gì cũng có cùng một lý như vậy. Ví như khi chỉ dạy đạo, việc khó nói cho người ta hiểu mà mong người phải hiểu, phải nghe lời mình thì cũng là tự trói buộc mình mà thôi. Biết hạt giống tốt, gieo thì cứ gieo, còn phải đủ các duyên thích hợp thì nó mới nẩy mầm được, hiểu rồi thì thung dung gieo hạt.

33. BIẾT MẤU CHỐT - TRÁNH LỤY PHIỀN
Đạo sư nói với Spal, Alen và Babu :
- Trong đời sống thường ngày, chính vì cái không biết mà người ta đau khổ, từ đó có thể sanh oán hận. Bệnh tật, yểu mệnh cũng từ chỗ buồn phiền, khổ đau, tức giận mà ra. Chính vì xót thương mà mình phải chỉ dạy, ngày hôm nay họ chưa thể hiểu thì đến lúc nào đó, họ cũng hiểu ra. Tùy khả năng của mình, có duyên thì chỉ dạy trực tiếp, nếu không, thì chỉ dạy gián tiếp bằng cách khéo gợi ý cho người biên chép, in ấn hay chỉ dạy qua các phương tiện truyền thông, ở chốn học đường, nơi chính trường v.v… Giúp được là nhiệt tình giúp, vì mình chẳng có mưu cầu gì ở phía sau nên ai cũng nhận ra và nối tiếp gieo hạt giống tốt như vậy.
Đạo sư nói tiếp
- Trong đời, khổ đau phiền nảo làm phát sanh nhiều oan nghiệt mà lẽ ra không đáng có. Ví như trong gia đình, cha mẹ nói con cái không nghe, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, anh chị em không đồng thuận nên bất hòa. Mọi chuyện cũng tương tự như các ông đi dạy đạo, nói cái hay, cái phải mà chẳng ai chịu nghe, chẳng ai ngộ được vậy. Các ông có bao giờ tự hỏi : “ Căn do từ đâu mà có như vậy không ?”
Spal vui thích nói :
- Thật sự đó là vấn đề lớn mà tôi luôn muốn biết, Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình an vui tự khắc xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng tốt đẹp, ngược lại, quả là một địa ngục trần gian. Kính mong đạo sư tận tình chỉ dạy, đây là cái trọng yếu cho mọi gia đình và cả nhân loại.
Đạo sư yên lặng một chút rồi nói :
- Chính như các ông đây đều là người có học thức, là những tiến sĩ, thạc sĩ lỗi lạc mà còn chưa nhận ra, thì trách gì người dân khốn khó, ăn không no, học chưa tới làm sao có thể thông hiểu cho được. Chuyện thật đơn giản, một gia đình, một gia tộc chẳng khác gì một bụi tre mà các ông thường thấy.
- Thử xét cái khởi đầu của một cây tre được trồng ! Nếu người trồng chẳng có một kiến thức gì về tre cả, trồng thì cứ trồng vậy thôi, thời gian trôi qua, nhìn lại một đám tre mọc chen chúc hỗn tạp, vào ra cũng không thể được, phát sanh bực bội, khốn khổ vì cái hỗn tạp đó. Với người trồng tre chuyên nghiệp, vì biết rõ mọi thứ về tre, trồng thì cũng y như nhau, nhưng nay thành một từng tre bạt ngàn, có thứ có lớp, có thể vào ra thu hoạch hay dạo chơi thung dung tự tại trong đó, nào phải có phép thuật gì đâu.
Đạo sư tiếp tục :
- Nay đứng trước đám tre hỗn tạp, vào ra chẳng được, các ông có ý trách tre hay trách người trồng ? Trách tre thì không thể được, trách người trồng cũng chẳng xong, vì khởi thủy có ai chỉ dạy cho họ cách thức trồng trọt đâu. Rõ ràng mọi thứ đều y như vậy, một gia đình khởi thủy mù mờ là chuyện đương nhiên, nhân ra thành một gia tộc mù mờ cũng là chuyện phải có như vậy, hợp thành xã hội hỗn tạp hôm nay, mọi người trong đó nay có ý oán trách nhau đều chẳng phải cả. Về lý thì gia đình hay xã hội có khác gì cái rừng tre hỗn tạp trước mắt kia đâu.
Babu nghe vậy có phần kinh sợ hỏi :
- Nay đã hỗn tạp như vậy, muốn sắp xếp ổn định lại phải đốt phá cả một rừng tre hay sao?
Đạo sư cười bảo Babu :
- Ví dụ mà nói như vậy thôi, người cũng như tre, có tội có lỗi gì mà phải hủy, phải diệt. Đã ngàn đời nó có như vậy rồi, cả thế gian cũng như vậy rồi. Nếu ngươi muốn có rừng tre đẹp, đơn giản là khởi đầu trồng lại cái mới thôi. Người cũng như tre đều có tuổi thọ ngắn ngủi, chẳng việc gì phải vướng bận chuyện dẹp diệt cả.
Đạo sư nói :
- Nên trước tôi có nói, người muốn có một thiên đàng tại thế thì chỉ còn biết nhờ vào thế hệ trẻ thơ tương lai mà thôi. Cũng như ngươi muốn có rừng tre đẹp vậy, phải nhờ vào những cây măng tre mới thôi. Khi mọi người hiểu ra phải có nền giáp dục chân thật tâm, từ ái, xa rời mọi thứ xấu ác là cái khởi đầu của thế hệ mới. Khi xấu ác xa rời thì thiên đàng sẽ tự có cho các thế hệ sau, có chuyện gì là lạ, cái xấu ác tự nó rơi rụng nào phải nhọc công dẹp diệt gì đâu !
Alen nghe ra như một chuyện không tưởng nên nói :
- Đạo sư nói về một rừng tre thì tôi nghĩ có thể đốt bỏ, trồng lại rừng tre mới. Nay một rừng người, cả thế giới mê mờ, nếu loại bỏ lớp cũ tạo dựng lớp mới, thật là chuyện không thể tưởng tượng ai có khả năng làm được.
Đạo sư cười bảo Alen “
- Tôi đã nói tre hỗn tạp cũng chẳng diệt mà người xấu ác cũng không phải đụng tới, là chuyện thật như vậy. Các ông là những nhà khoa học hẳn cũng biết, rừng tre hỗn tạp cho tới một thời điểm chen chúc sống không nỗi, cả rừng tre tự trổ bông một lần cuối cùng rồi tàn lụi. Con người lại đơn giản hơn nhiều, vì có xúc có tình, có trí có thức nên sống quá mệt mỏi trong địa ngục, cũng tự chọn cho mình chỗ an ổn, tốt lành hơn, chẳng cần ai đôn đốc cả.
- Nhưng nếu chẳng có lớp trẻ mới khai mở ra con đường mới an lành thì lớp cũ cũng quanh đi quẩn lại con đường xấu ác cũ cho dù chẳng ai ham thích địa ngục khốn khó cả. Nay có con đường mới an lành, họ cũng mong muốn cho con cháu được an lành, hạnh phúc như vậy.
Đạo sư giải thích :
- Trước tôi chỉ nói phớt qua chuyện tạo dựng thiên đàng, vì nó còn là chuyện ở phía sau. Chuyện hiện tại của các ông là cần học, cần biết những mấu chốt để giúp con người biết phương cách bớt phiền, bớt khổ. Bớt khổ phiền rồi, con người mới có tâm trí quán xét để làm các việc tốt đẹp hơn ở tương lai.
- Ví như biết sám hối không những tự cải đổi cả vận mệnh, những nỗi khốn khó, bệnh tật tại hiện kiếp mà còn tạo cho thần thức một khuôn mẫu để khi đối mặt với Diêm vương, nếu các việc xấu ác quay trở lại trước mắt thì đã có sẵn khuôn mẫu từ việc sám hối, nên chẳng phát ý đối kháng hay chạy theo các việc xấu ác nữa. Có như thế mới qua cầu Nại Hà mà chẳng bị rơi rụng trờ lại nơi xấu ác, khốn khó.
- Còn một việc quan trọng là các ông phải học biết căn do vì sao con người bị đảo điên và vô tình tiếp nối truyền dạy phương cách đảo điên như hiện nay. Biết rồi thì chẳng còn hơn thua, ganh ghét nhau nữa, thấy rõ được các việc phải làm, phải giúp chúng sanh kể cả những người xưa kia mình oán ghét thậm tệ. Biết rồi thì một gia đình sẽ là một hạt giống tốt lành, khi được gieo mầm là tự lan tỏa khắp nơi. Gia đình nào cũng muốn được an vui, hạnh phúc, đó là nền tảng cho một xã hội tốt lành. Tạo dựng thiên đàng tại thế từ những chỗ biết như vậy. Nay các ông cần phải biết thêm mấu chốt gì ? Hãy kiên nhẫn, lặng lẽ lắng nghe …

34. MỘT CÁI BIẾT LÀM CHUYỂN ĐỔI MỌI TÂM THỨC
Đạo sư chỉ dạy mấu chốt phải biết :
- Ông bà, cha mẹ trong một gia đình luôn than phiền : “ Trẻ bây giờ sai thật khó dạy, nói chẳng nghe lời! ”
- Nếu có người hỏi lại bậc trưởng thượng đó : “ Ngày xưa ông bà có khi nào không vâng lời ông bà, cha mẹ mình như vậy không ?”
- Câu hỏi tuy thường như vậy, hoát nhiên làm cho bậc trưởng thượng suy tư : “ Sao lạ vậy nhỉ ? Ngày xưa khi mình còn trẻ thì cũng như vậy, nghe lời chỉ dạy thì thu nhận rõ ràng, lòng cũng muốn vâng lời nhưng tại sao mình đã không vâng lời? Tại sao như vậy ?”
Đạo sư nói tiếp :
- Chính chỗ chẳng hiểu vì sao nên cứ nghĩ là trẻ chẳng tôn trọng mình, chẳng chịu vâng lời, mất dạy v.v… Sân giận bùng lên, oán ghét phát sanh, oan trái đi liền sau đó cho cả gia đình !
- Nếu biết rằng, một trẻ mới sanh ra đời phải mang theo cả một khi nghiệp báo từ bao đời trước, nghiệp báo xấu ác hay phước đức tốt lành gì, trẻ sanh ra là phải nhận như vậy. Kiến thức đời sống mới chỉ khởi đầu thu nhập từ ông bà, cha mẹ và những bậc trưởng thượng trong xã hội trực tiếp hay gián tiếp chỉ dạy cho trẻ.
- Hãy nhìn trẻ, nghiệp quả nặng nề phải trả thể hiện qua lời ăn tiếng nói, qua quan hệ bạn bè, qua sở thích sách báo, tranh ảnh, ngành nghề mà trẻ tiếp cận, hướng theo các nghiệp quả nào thì sẽ thể hiện sự say mê lần theo lãnh vực đó.
Đạo sư chậm rãi nói :
- Nhìn cách sinh hoạt của trẻ, lưu tâm một chút là có thể rõ biết trẻ đang bị thôi thúc vì tình, tiền, háo danh, kiêu ngạo, ham ăn, thích ngủ, đam mê cờ bạc, rượu chè v.v… Mọi thói hư tật xấu hướng theo việc xấu ác nào cũng tự nhiên thể hiện rõ ra trong sinh hoạt thường ngày. Xưa nay vì bậc trưởng thượng không biết nên không để ý, không quan tâm đến những điều như vậy, không thấy cái trẻ cần được giúp đỡ để chống đỡ với nghiệp quả, mà chỉ đổ lỗi, đổ tội cho trẻ là ngu mê, ngang bướng v.v… Thật oan uổng cho trẻ !
- Trẻ lớn lên cái gì cận kề là thu nhận, cả tốt lẫn xấu, nay trẻ thật sự xấu ác chẳng thể đổ tất cả tội lỗi cho trẻ được. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của trẻ thì mình cũng thu nhận những thứ như vậy và cũng xấu ác như vậy, không thể khác được. Hiểu được khổ phiền đang đè nặng trong tâm thức trẻ, quả là đáng thương hơn đáng trách.
- Ai đã từng quan sát bầy chó tháng bảy đang lao vào nghiệp tình dục, bỏ ăn, bỏ ngủ, chết sống cũng chẳng sợ, như điên như dại khi trả nghiệp quả dục tình này.
- Con người cũng vậy, phương cách tuy có khác nhưng tâm thức như mờ đục, như điên dại thì cũng tương tự. Ví như hai trẻ bị cha mẹ cấm đoán quen nhau, có thể vui chết cùng nhau. Cho nên, bậc trưởng thượng cần phải hiểu biết để xót thương, giúp lèo lái cho trẻ qua khỏi chỗ gian nguy chứ chẳng phải mắng chửi, la rầy trẻ như kẻ phạm tội, là đầy trẻ vào bước đường cùng. Chính vì rõ biết mà xót thương, cứu giúp, hiểu rồi thì không còn bực tức, oán trách. Thân an, tâm an, lo nghĩ cách cứu giúp trẻ, qua đó cũng tự giúp mình tu tập từ ái thăng tiến hơn.
Đạo sư nói lại về nghiệp quả báo :
- Có người chẳng thể hiểu và tin những chuyện nghiệp quả như thế nên tới nhờ Phật giảng nói cho rành rõ, nghiệp quả báo là thật có hay không thật có ?
- Phật chỉ dạy : “Người đạt đạo quả rồi thì rõ biết. Các ông muốn thật rõ biết có nghiệp báo hay không, thật chẳng thể diễn tả cho các ông tin nhận được, chẳng khác chi cá dưới nước muốn thật biết cọp, beo trên rừng ra sao vậy. Ví như có người tự nhiên tới đánh chửi các ông chẳng biết căn do vì sao ! Ngay khi đó các ông có hai cách ứng xử :
Một là tin có nghiệp báo, nghĩ rằng lúc xa xưa nào đó mình có làm gì sai trái, nay quả đã tới. Nghĩ vậy nên các ông tỉnh giác hỏi căn do, dù có dù không các ông cũng giải quyết cho êm đẹp.
Hai là các ông chẳng tin gì cả, cũng chửi mắng, đánh lại, nhẹ thì thương tật, nặng thì chết chóc, tội tù.”
- Mọi việc ứng xử trong đời cũng cùng lý như vậy, ta chẳng bảo các ông tin cùng chẳng tin, nhưng trong hai phương cách ta vừa nói ra, chẳng lẽ các ông khờ khạo chọn con đường tù tội hay sao !
Đạo sư nói :
- Học hiểu được mọi việc là tự cứu mình và chỉ dạy là nối tiếp giúp cho hậu thế, vì thật sự ai cũng đáng thương xót, đáng được cứu giúp, chỉ dạy. Không chịu học, không hiểu biết là tự chọn con đường khổ phiền, xấu ác, gian manh. Không hiểu nên lòng từ vắng bóng, bực tức, oán trách mọi người ngay cả với con cháu và chính mình nữa, chẳng những hại mình mà còn hại cả người, y như lời Phật dạy “ Chẳng lẽ các ông khờ khạo chọn con đường khổ phiền hay sao !”
Đạo sư nói tiếp :
- Nên hiểu, mọi người đều bị thúc ép do những nghiệp lực quả báo của riêng mình và còn bị thúc ép do nghiệp lực quả báo chung của mọi người xung quanh. Ví như trẻ sống trong một gia đình, một gia tộc, một xã hội mà ai cũng vui thích tận hưởng sự giàu sang với các hình thức xấu xa như tổ chức ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, đàng điếm, … Trẻ được nuôi dạy theo quan niệm sai trái đó sẽ sống và hành xử y như vậy, sẽ chịu nghiệp chung như vậy.
- Nghiệp quả riêng của trẻ đã nặng nề, nay cộng thêm nghiệp quả chung của gia đình, của xã hội, càng thêm nặng nề, không lối thoát. Cái mê mờ này lại chồng chất thêm cái mê mờ khác, chẳng đáng xót thương, đáng tội nghiệp lắm sao !
Đạo sư tóm ý :
- Chúng ta nay có duyên phần hồi tỉnh lại, thấy được bao thứ sai trái nơi trẻ, còn thấy xa hơn về một thảm họa tội tù, phiền não đang chực chờ ập xuống đời trẻ. Người hiểu rồi thì thấy kinh sợ, người chưa hiểu được thì đang đùa giỡn chập chờn trong thảm họa. Chẳng là đáng thương xót lắm sao ?
- Từ tâm nhóm lên là mọi oán hờn vụt tắt, bực tức, sân giận tan đi, giúp cho người an, mọi việc an ổn, bình lặng trở lại. Từ ái, thương xót, thứ tha, con đường êm ái an lành như thế chẳng đáng chọn hay sao ?
Đạo sư nhìn xa xôi, giọng trầm buồn nói :
- Các ông thấy đó, lấy trẻ là nói cái khởi đầu cho dễ thấy. Tất cả chúng sanh thuộc mọi tầng lớp cũng cùng một lối đi khốn khó như vậy, tất cả mọi người đều thật đáng xót thương, cảm thông, cứu giúp.
- Thật hiểu rồi chẳng còn gì so đo, day dứt với mình, với người. Một cái biết giúp chuyển đổi mọi nghĩ suy khốn khó, sai lầm. Học hiểu rồi, từ tâm nhóm lên là mọi sân giận, oán hờn vụt tắt, việc tốt lành như vậy chẳng đáng chọn sao ? Hiểu được là cứu mình, chỉ cho người là tiếp nối độ tận chúng sanh vậy !

35. CHÂN LÝ CHẲNG CỦA RIÊNG AI
Đạo sư nói :
- Người có quan niệm hẹp hòi khi không thể học hỏi tiến bộ, sáng biết được. Ví như người ăn hiền ở lành thì ai cũng thương mến, người gieo hạt giống tốt thì có quả ngon ngọt, người gieo hạt giống xấu ác mà mong có quả an lành là việc không thể có được. Người tâm chân thật thì thân an, tâm an, ai cũng thương mến. Người giả trá, gian manh thì thân tâm chẳng thể an ổn, lại mong ước được mọi người thương mến là chuyện không thể.
Đạo sư chậm rãi nói tiếp :
- Học tu và nói về đạo là nói những điều lành, điều chân thật, chẳng phải nói riêng cho tôn giáo nào. Con đường đạo tốt đẹp đem tới an lành, hạnh phúc thật sự là của mọi người, chẳng thể nói của riêng ai, của riêng tôn giáo nào ! Tâm nhân loại là tâm nhiều người chung góp, tâm hiền hòa, chân thật, từ ái là tâm thánh thiện, được cả nhân loại ngợi ca và tán thán.
- Nói chân lý chẳng của riêng ai là phá vỡ rào cản, ý niệm hẹp hòi, chỉ biết có mình, gia tộc mình hay chỉ lưu tâm đến dân tộc mình mà chẳng biết xót thương ai khác, chỉ chăm lo cho người thuộc tôn giáo mình mà chẳng xót thương người ở tôn giáo khác. Khi phá vỡ cái quan niệm hẹp hòi, lòng từ ái tự khắc rộng mở, bao trùm cả nhân loại cho đến vạn vật muôn loài. Nói vậy để thấy cái chung cùng, từ đó nhìn lại từng cá nhân nhỏ bé, tất cả đều có liên quan chặt chẽ với nhau, xâm phạm nhau là tự hại mình vậy.
Đạo sư chậm rãi nói :
- Ví như một người chặt cây, đốt cỏ trong vườn nhà mình thì cho là chẳng liên quan gì tới ai. Nhưng nghĩ xa một chút, nếu ta có quyền hành chặt tất cả cây cối trên thế gian này thì thử hỏi thực vật hết rồi, liệu động vật có thể tồn tại được chăng? Từ cái tổng quan đó, chúng ta mới thấy tầm quan trọng, sự cần thiết của một cái cây, một ngọn cỏ. Tất cả đều liên quan chặt chẽ và cần thiết cho nhau cả.
- Người ta tiêu diệt một loài chuột trên cánh đồng thì một loài rắn cũng vắng bóng. Tiêu diệt một loài sâu bọ này thì dịch bệnh do loài sâu bọ khác phát sinh. Con người vì những nhu cầu hưởng thụ, vì tham lợi đã khai thác rừng, đào giếng, khoan dầu, phá núi, … khiến cho thảm họa thiên nhiên ập tới do mất cân bằng sinh thái. Mọi thứ đã diễn ra trước mắt chúng ta, tai họa cũng đã ập tới, những việc như vậy chẳng phải có thể tự bày biện ra để nói được.
Đạo sư nói tiếp :
- Tôi nói để các ông nắm rõ vấn đề, hiểu một cách rõ ràng, khoa học mới không bị rơi vào chỗ mê mờ, không bị kẹt trong những ràng buộc giáo điều của một tôn giáo nào cả. Ví như các ông đang theo học các pháp học của Phật Thích ca, Phật dạy đạo nhưng không bày ra tôn giáo, không o ép mọi người phải tin nghe, không đụng chạm hay bài bác một đạo giáo nào khác vào thời đó. Phật chỉ muốn giúp chúng sanh hiểu biết rõ ràng các hiện tượng của trời đất như luật Nhân quả, tình Duyên khởi của các pháp, ai rõ biết và áp dụng thì có lợi ích cho mình, giải thoát được khổ phiền.
- Khi không bị o ép bởi một giáo điều nào thì các ông mới thung dung tự tại vào ra mọi pháp học dù là của tôn giáo nào để học tập cái hay, các điều ích lợi hay tới giúp đỡ các tôn giáo nhiều việc mà không ngăn ngại gì cả. Tinh thần học đạo là phải chân thật, từ ái, biết xót thương, giúp đỡ mọi người cho tới muôn vật vạn loài. Nói đạo là nói con đường an lành, thánh thiện, giúp đưa mình đưa người ra khỏi chỗ khổ đau, phiền não, là phương hướng để thăng tiến từng giờ, từng phút cho tới vô lượng kiếp vậy.
Đạo sư bảo :
- Có người nghe nói như vậy thì nghĩ tới đời sống một người chỉ là lo tu học, lo cứu giúp đến vô lượng kiếp, có phải là chuyện buồn tẻ và vô vị quá không ? Chuyện như vậy quá xa xôi nên đối với người căn cơ còn thấp kém thì Phật cũng chẳng nói rõ như vậy, mà đưa đi từng đoạn đường rồi tự khắc sẽ biết. Các ông theo tu học đến giai đoạn này, đã thông hiểu được nhiều việc, là căn cơ, thần thức đã ở tầng bậc cao, nếu không rõ biết thì cũng sẽ bị va cấp đáng tiếc. Vì sao tôi nói như vậy?
- Vì không rõ biết, từng ngày từng giờ đều phải tiến tu như thế, nên ngay lúc này thì các ông gọi là đang tu học, rời khỏi nơi đây thì các ông cho là đang làm gì ? Hết tu hay nghỉ tu một lúc ư? Người tu vì chẳng rõ biết như thế nên những lúc có cúng, có tụng thì nói là tu, xong rồi, quên hết mọi thứ y như mọi người, tham vẫn tham, sân vẫn sân, so đo đủ điều, toan tính đủ thứ cho riêng mình. Một giờ tu chưa thấy được phúc đức gì, giờ sau đã vướng mắc bao nhiêu là quả nghiệp vay trả của thế gian. Vay rồi không trả liệu có được không ?
Đạo sư nói :
- Người tu chẳng khác người leo núi, leo lên tuột xuống như vậy từng giờ, từng ngày thì đến bao giờ mới lên được tới đỉnh đây ? Không khéo còn bị rớt xuống vực thẳm, cũng chỉ vì chưa thật biết tu là phải liên tục quán xét, chạm việc xấu ác là rời xa, gặp chuyện cần giúp thì giúp, cần cứu thì cứu. Phật luôn nhắc nhở phải tinh tấn, miên mật tiến tu là như vậy.
- Với người phàm tục không tu học, leo khỏi địa ngục rồi lại rớt vào, quay tới quay lui như vậy là chuyện bình thường, không có gì để nói. Nay như các ông, có tỉnh có giác, có tín tâm tu học nhưng chỉ vì một chỗ không lưu tâm, không biết phải miên mật như vậy, nên bị va vấp sai trái liên tục, quay tới quay lui như người không biết tu gì cả, có là đáng tiếc lắm không ?
Đạo sư nhìn Babu đang mơ màng chuyện gì nên hỏi :
- Babu ngươi đang nghĩ suy chuyện gì, có gì hay nói cho mọi người cùng biết !
Babu ngồi thẳng lên trịnh trọng nói :
- Con nghe đạo sư chỉ dạy bao nhiêu điều về việc tu học, có điều nghe lạ lùng, hình dung mọi việc theo lời dạy của đạo sư quả là chẳng phải dễ dàng. Đạo sư vui lòng kể một chút chuyện đời vui vui, thư giãn.
Đạo sư cười bảo Babu :
- Ngươi quả là khéo nhắc cho ta, chỉ dạy đạo mà thiếu những chuyện vui vui quả là khô khan, khó nghe và buồn ngủ nữa. Tôi có chuyện vui vui đây, nghe rồi các ông có buồn ngủ cũng tỉnh lại thôi.
Babu thích thú hỏi :
- Đạo sư sẽ kể chuyện đời hay chuyện đạo ?

36. VIỆC TU - THÂN TU HAY THẦN THỨC TU ?
Đạo sư ôn tồn hỏi Babu :
- Babu, nhà ngươi cho rằng chuyện đời và đạo là hai chuyện khác nhau chăng ?
Babu chân thật nói :
- Dạ, con nghĩ khác biệt nhau xa lắm, theo đạo thì ly rời đời, theo đời thì không thấy đạo, rõ là khác biệt.
Đạo sư cười ôn tồn nói :
- Quả là ngươi nói đúng như mọi người hay nghĩ suy, nên ta bảo ngươi nói sai thì cũng không phải, mà bảo ngươi nói đúng cũng chẳng phải lý ! Vì sao nói như vậy, hãy lắng nghe cho rõ biết !
- Ví như nhà ngươi ra chợ, thấy một bà già yếu, ngồi bán một ít trái cây lấy tiền đổi gạo nuôi con cháu trong nhà. Ngươi thấy chuyện trước mắt  như vậy, ta hỏi người đó là chuyện đời hay chuyện đạo ?
Đạo sư nói tiếp :
- Người đàn bà già nua đó đã một đời sanh con cái, chăm sóc và nuôi dạy cho khôn lớn, nay lại tiếp tục lo cho các cháu, phụ giúp cha mẹ chúng bớt một phần cực nhọc, vất vả trong cuộc sống. Tân từ ái đó các ông gọi là đời hay đạo ?
- Một vài món thực phẩm đem ra bán, người tu học đi ngang qua mua về nuôi thân để tu. Giúp cho người có cái ăn để sống còn và tu học là việc đạo hay việc đời ? Chẳng có những việc đời như vậy, người học đạo làm sao tồn tại được để có chỗ luân hồi trở lại mà tu học, chẳng có người đời giúp để tu thì liệu có tới với đạo được không ?
Đạo sư chậm rãi nói :
- Nói khái quát như vậy để các ông đừng mơ hồ, lẫn lộn chuyện đạo là xa rời đời nữa. Đạo có một ý nghĩa lớn bao trùm cả thiên hà vũ trụ, vạn vật muôn loài, con người chỉ là một trong hằng sa cái đó. Nay muốn biết rõ về đạo nên phải học đạo hay gọi là tu học đạo, vì thế, phát sanh trong đời có thêm một số người lo học đạo.
- Nói rõ vậy để các ông bỏ quan niệm sai lầm “Người có tu học đạo là người cao trọng, rồi phát ý xem thường người đời, là khởi đầu cái sai trái, chướng ngại trong đường tu học đạo”.
Đạo sư nói tiếp :
- Phật, Bồ tát, Alahán, Thánh, Thần, Tiên hay vĩ nhân cũng là những người lần bước trong đời để tu học, tinh tấn qua bao đời kiếp mới thành tựu như vậy, chẳng có ai từ trên trời rơi xuống cả. Tu học có thành tựu cũng chẳng thể quên rằng đời đã bao kiếp giúp cho họ luân hồi, sống được để tu học đến ngày nay.
- Phật Thích Ca khi chỉ dạy hàng Thanh văn trong pháp tu rốt ráo đạt tới Alahán có chỉ dạy : “ Muốn thành tựu phải thu cút thân căn, một ý niệm dù ác dù thiện cũng không cho phát khởi, ly rời mọi vọng tâm thế tục, vọng tâm có dứt thì Chân tâm mới hiển lộ ”.
- Phật chưa từng bảo rời bỏ đời để tu, chỉ khuyên dạy ly rời mọi vướng bận của đời thì thân tâm mới an tịnh, có như thế mới thực hành các pháp tu rốt ráo, đạt Thánh quả được. Tọa thiền tu rốt ráo, một ý niệm dù thiện hay ác cũng không cho phát khởi, trước tiên là để cho dứt niệm, dứt thở, để nhập lưu dòng Thánh, được quả vị thứ nhất Tu đà huờn. Từ lãnh địa không sanh diệt này mà lần vào các quả vị kế tiếp, cho tới Vô sanh pháp nhẫn là tròn tận.
- Phương pháp tu đòi hỏi lúc đó phải như vậy, khi rời pháp tu rồi hay đã đắc Alahán rồi thì cũng ăn uống ngủ nghỉ, sinh hoạt bình thường như bao người trong đời, nào có ai rời bỏ đời đâu, Alahán cũng vậy, Phật cũng như vậy.
- Nói cùng lý để các ông hiểu ra một việc quan trọng, tu học phải rõ biết là tâm tu, chẳng phải vật tu hay việc tu.
- Người làm các việc cho là tu mà tâm đang nghĩ suy chuyện đời cũng không gọi là tu được. Nói tu phải hiểu là ngay giây phút hiện tại này, ngay thời điểm đang hít thở đây, phải nhận biết các điều xấu ác như tham, sân, si, dục, tình, danh lợi, để ly rời, để tội lỗi không sanh thì thân mới an, tâm mới an được. Tinh tấn thẳng tiến từng giây, từng phút hiện tại như vậy, tâm chẳng bị quấy rầy, vẩn đục, tự nhiên hiển lộ cái sáng biết thôi, chẳng có gì là huyển hoặc cả.
Đạo sư nói :
- Các ông không thông tỏ việc trên thì trong giờ tụng đọc, lễ lạy, nói là đang tu, còn ngoài giờ thì sao ? Chẳng biết tu cái gì hay lúc đó gọi là nghỉ tu ư ? Như thế là chưa rõ biết pháp tu học. Biết rõ mình trong từng giây phút, miên mật loại trừ cái xấu ác, giữ lòng chân thật, từ ái là chuyện vui thích, vì biết mình đang làm thay đổi cả vận mệnh cuộc đời theo hướng tốt lành, còn kéo theo bao người thân thương làm được như vậy.
- Ý nghĩ lúc nào cũng cho tu là việc khổ sở, vì thấy các việc trợ tu như đi chùa, cúng tụng , đọc kinh, lễ lạy, cạo đầu, xuất gia, ăn chay, v.v… có thật nhiều rắc rối, khó khăn nên thật tâm lo sợ. Đó chỉ là các việc trợ giúp cho dễ tu, mau tinh tấn, chẳng phải ai tu cũng phải làm như vậy. Phải luôn luôn rõ biết tâm tu chứ chẳng phải việc tu.
Đạo sư nói tiếp :
- Nay hiểu ra, vật hay việc cùng thân người làm việc gọi là tu, cũng chưa nói là tu được, chỉ có tâm ý người có quyết tâm, miên mật tu hay không mà thôi ! Tâm ý mình có chịu học, có tu sửa từng giây từng phút hay không mới là điều chính yếu. Nơi nào, lúc nào cũng thung dung cho tâm ý đừng làm sai trái là việc tu đã tiến bộ đúng hướng.
Đạo sư nói :
- Tôi giảng nói các pháp chỉ là khởi động nhận thức nơi tâm các ông, chưa thể nói là đã tu học rồi, chưa có cái gì gọi là tu trong thân các ông cả ! Đó chỉ là cái nghĩa lý các ông vừa nhận biết thôi.
- Nhập tâm quán xét, ứng xử thực tế từng giây phút trong hiện tại mới gọi là tu hay thực hành pháp tu tập. Có sai trái, biết sai là biết sửa liền khi đó, tinh tấn thẳng tiến cũng phát sanh từng giây từng phút như vậy, chứ chẳng phải nghĩ rằng đã học kinh sách, đã biết các pháp học là đã tu rồi được.
- Nền tảng tu học không vững chắc, dù có được pháp tu rốt ráo thì các ông cũng không thể nào thâm nhập để thành tựu cho được. Các ông đang khởi đầu tạo dựng một thiên đàng trong tâm thức các ông, nó sẽ vĩnh cữu theo các ông đến vô lượng kiếp.
- Thiên đàng này có cao đẹp, rộng mở được tới đâu còn tùy thuộc công sức của các ông thực tiễn hoằng pháp độ sanh, cái thiên đàng tại thế mà mọi người đều có thể an vui trong đó!


HẾT PHẦN 1
(Các phần 2,3,4,5 sẽ sớm chuyển đến tay các bạn trong ngày gần đây)