Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025

Tín Nguyện Chuyên Trì Danh Hiệu Phật

 

Hòa thượng Tịnh Không 

Cho nên tất cả chư Phật, Như Lai đã nói ra pháp môn vô lượng vô biên đều là từ A Di Đà Phật, đều từ cái khởi điểm này mà dẫn khởi ra. Tất cả pháp quy kết đến sau cùng chính là A Di Đà Phật, bạn nghĩ xem, A Di Đà Phật tôn quý đến chừng nào.

Niệm A Di Đà giúp gia tăng định lực cho 15 nạn nhân gặp nạn sinh vào cõi lành

Kính thưa chư vị pháp sư, chư vị đồng tu, xin mời ngồi! Mời xem Phẩm thứ hai mươi bốn: Ba Bậc Vãng Sanh, chương Thượng Phẩm Vãng Sanh.

Ở Phần trước chúng ta đã học tập qua phát tâm Bồ Đề, tiếp theo kinh văn là “nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật”. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, tại trong Chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, trước tiên Ngài đã trích dẫn Kinh A Di Đà Yếu Giải nói cho chúng ta biết là, trong toàn bộ Phật pháp thì Trì Danh Hiệu Phật là pháp thẳng tắt nhất, viên đốn nhất. Những lời khai thị này rất là quan trọng, khiến cho chúng ta trước tiên chân thật xây dựng quan niệm chính xác. Quý vị đều biết trong Phật pháp thì Từ Bi Vi Bổn, Phương Tiện Vi Môn [từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa]. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa khi còn tại thế giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm đều là pháp phương tiện, mà thậm chí đến tám tướng thành đạo, vô số thị hiện vẫn là pháp phương tiện. Rời khỏi phương tiện thì không có Phật pháp. Phật pháp là thông qua phương tiện khiến cho chúng ta từ trong pháp phương tiện mà ngộ nhập, rồi khế nhập pháp chân thật. Pháp chân thật là đoạn dứt ngôn ngữ, diệt nơi tâm hạnh, chỉ có thể nói là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Việc này chúng ta không thể không biết. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật như thế, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật, Bồ Tát cũng không hề ngoại lệ. Chúng ta đã hiểu rõ đây là pháp môn thẳng tắt và viên đốn nhất, lại nói với chúng ta biết đây là pháp môn đơn giản và ổn định. Để cho chúng ta tu tập tiện lợi thì phải đơn giản, phải dễ dàng, nếu rất phức tạp, rất khó khăn thì chúng ta học không dễ dàng như vậy, mà phải đơn giản dễ dàng, hơn nữa còn phải ổn định thì quyết định được thành tựu. Đây là pháp môn gì vậy? Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta là Tín-Nguyện chuyên trì Phật hiệu. Chân thật là đơn giản.

Cho nên trong Vãng sanh truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục cho đến ngay chính chúng ta trong đời này thấy rất nhiều người niệm Phật có tướng lành vãng sanh. Vì sao họ được thành tựu? Vì họ có Tín Nguyện Chuyên Trì Phật Hiệu. Năm xưa tôi ở tại Singapore, lão Lâm trưởng của Cư Sĩ Lâm là cư sĩ Trần Quang Biệt, ông bị bệnh trong một thời gian dài, khi bị bệnh ông không thể làm việc nhưng tinh thần vẫn rất tốt, đầu óc rất minh mẫn và ông muốn nghe kinh. Vì ông cả đời hộ trì Phật pháp nên không có thời gian chuyên tâm nghe kinh, nhờ vào cơ duyên bị bệnh này mà mỗi ngày có thời gian để nghe kinh.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Ông đến Cư Sĩ Lâm lấy đĩa kinh mà tôi giảng, người nhà của ông nói với tôi, lão cư sĩ mỗi ngày nghe kinh 8 giờ đồng hồ, ngoài nghe kinh ra thì niệm Phật suốt hai năm không hề gián đoạn. Có một hôm, ông nói với Lý Mộc Nguyên, ông muốn vãng sanh. Cư sĩ Lý nói với ông, hiện tại ông không thể đi vì nhân sự của Cư Sĩ Lâm chưa ổn định, ông nhất định phải trụ thế thêm vài năm nữa. Ông cũng đã đồng ý. Trải qua thêm được hai năm, tức là ông đã mỗi ngày nghe kinh niệm Phật được bốn năm, thì ông xin từ chức lâm trưởng của Cư Sĩ Lâm, nhường cho Lý Mộc Nguyên. Lúc này đạo tràng Cư Sĩ Lâm cũng đã ổn định. Ông biết trước giờ vãng sanh, ông cũng không nói với mọi người, dường như là mùng 8 tháng 3, tôi không còn nhớ rõ ngày nào, ông viết ngày giờ ở trên miếng giấy, viết mười mấy lần như vậy, người trong nhà cũng không dám hỏi ông, cũng không biết đó là nói đến việc gì, vì sao ông lại viết nhiều lần như vậy?

Đến ngày hôm đó, quả nhiên ông đi vãng sanh thì người trong nhà mới biết được là ba tháng trước ông đã viết ra ngày tháng mà chính ngày hôm đó ông vãng sanh. Trong suốt thời gian bốn năm, ông mỗi ngày nghe kinh 8 giờ, ngoài thời gian nghe kinh ra thì ông tín nguyện niệm Phật, chuyên trì danh hiệu Phật nên vãng sanh được tự tại như vậy. Dường như trước mấy ngày ông vãng sanh, ông có đến  tìm tôi và tôi đã quy y cho ông, điềm lạ rất tốt. sau khi vãng sanh rồi còn có một nhóm oan gia trái chủ đến Cư Sĩ Lâm xin nghe kinh và quy y, chúng tôi đều làm cho họ. Sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Đây là việc gần đây mà chúng tôi chính mắt thấy được. Cho nên đây là pháp môn đơn giản ổn định, đây là việc thật không phải là giả.

Đại sư Ngẫu ích lại nói với chúng ta: công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Danh hiệu này chính là đức hiệu trong tự tánh của chúng ta vốn sẳn đầy đủ. Trong phần trước đã giới thiệu với các vị là “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”,  đây là nói về lý luận. Lý luận thấu triệt rồi thì đối với phương pháp tu học pháp môn này sẽ không có hoài nghi, bạn sẽ rất hoan hỉ, rất an vui mà nổ lực tu học. Nếu bạn hỏi, chúng ta nổ lực tu học pháp môn này thì thời gian bao lâu mới có thể thành tựu? Tôi học Phật đã 55 năm, đem 55 kinh nghiệm nói với các vị, thông thường đều là 3 năm, rất ít nhiều hơn 5 năm. Hoặc có thể bạn nói bạn học Phật đã được 20 năm 30 năm rồi nhưng vì sao không có một chút thành tựu nào? đó là vì công phu của chính bạn không có lực.

Bốn phương pháp niệm Phật

Về việc này, khi tôi mới học Phật, lão sư thường hay nói với tôi là phải thông đạt lý luận thì sẽ không có hoài nghi, phương pháp chính xác thì tín tâm của bạn đầy đủ, không thể không biết lý luận và phương pháp. Lý luận phải học từ đâu? học từ kinh giáo. Cho nên ở thời đại này, chúng ta nhất định phải nghe kinh. Người thời xưa có thể không nghe kinh, vì sao vậy? vì họ thành thật. Tại vì sao ngày nay chúng ta phải nghe kinh? bởi vì chúng ta không thành thật. Không thành thật chính là nghĩ tưởng lung tung, vọng niệm quá nhiều, khiến cho công phu của chúng ta không có lực. Vì sao không có lực? vì trong lúc niệm Phật có xen tạp vọng niệm. Bạn nghĩ lại xem, niệm Phật là chuyên trì danh hiệu, cái chữ chuyên đó chúng ta chưa làm được thì nhất định phải nghe kinh. Cho nên mục đích của nghe kinh, học giáo là giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín, dụng ý là ngay chỗ này. Nếu như chúng ta không có hoài nghi, không có vọng niệm xen tạp, thì có thể không cần nghe kinh, niệm một câu Phật hiệu thì thành công rồi.

Các vị thấy, kinh điển của Phật giáo có bộ Đại Tạng Kinh, bạn đến đại giảng đường chúng ta mà xem, trong đại giảng đường của chúng ta có mười loại Đại Tạng Kinh phiên bản khác nhau. Bạn xem, kinh điển mênh mông như biển, nhiều đến như vậy, nhưng những gì Phật dạy có phải nhiều đến như vậy không? Phật dạy đơn giản nhất chính là bốn chữ A Di Đà Phật, thêm vào hai chữ Nam Mô. Nam Mô cũng là tiếng Phạn, ý nghĩa là cung kính, cũng có nghĩa là quy y, trên thực tế danh hiệu chính là bốn chữ. Đại sư Liên Trì cả đời niệm Phật, chỉ niệm bốn chữ này. Có người thỉnh giáo với Ngài cách niệm Phật như thế nào? Ngài dạy người niệm sáu chữ. Người ta hỏi Ngài, còn Ngài thì niệm như thế nào? Chính ta chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật. Người khác liền hỏi Ngài tại vì sao Ngài niệm chỉ có bốn chữ còn Ngài dạy người khác niệm sáu chữ. Ngài nói, vì người khác chưa chắc chân thật phát tâm cầu vãng sanh nên thêm vào hai chữ Nam Mô thì tốt. Đây chính là lễ tiết thông thường của Trung Quốc chúng ta, trên danh tự của người thêm vào hai từ tôn kính, đó là lời khách sáo, tôn kính. Nam Mô có ý nghĩa của tôn kính, lễ kính, quy y. Trên kinh điển Phật dạy chúng ta chuyên trì danh hiệu, danh hiệu chính là bốn chữ A Di Đà Phật, Nam Mô không phải là danh hiệu. Ngài nói ta ngay đời này quyết định cầu sanh Tịnh Độ nên không cần nói lời khách sáo, nên không cần niệm Nam Mô, chỉ niệm bốn chữ thì càng đơn giản hơn.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Người ta hỏi Ngài cái gì là Phật pháp? Ngài trả lời: A Di Đà Phật. Ngài đã trả lời một cách tròn đầy cho họ rồi. Trong tất cả tôn giáo, tất cả học thuật trong thế gian thì đơn gian nhất, dễ dàng nhất, chân thật ổn định nhất chỉ có bốn chữ này. Bạn đi đâu mà tìm được chứ?! Thế nhưng đại sư Ấn Quang vẫn dạy chúng ta niệm sáu chữ là do nguyên nhân gì vậy? vì tổ sư rất tường tận các người niệm Phật có miệng mà không có tâm, chỉ là kết cái thiện duyên với Phật A Di Đà. Các vị phải nên biết, việc này Ấn tổ đã nói rất nhiều, nói được rất tường tận là kể cả pháp thế gian hay xuất thế gian, thành tựu hay không chính là ở hai chữ “Thành” và “Kính” này. Chân thành cung kính là điều quan trọng nhất trong tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Một phần thành kính thì được một phần lợi ích, hai phần thành kính thì được hai phần lợi ích, mười phần thành kính thì được mười phần lợi ích. Nếu không có tâm thành kính thì cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều không thể thành tựu. Thầy giáo dựa vào phương pháp gì để chọn học trò?

Từ xưa đến nay, thậm chí đến nước ngoài, chân thật thiện tri thức chọn người truyền pháp, chính là họ xem ở học trò này có tâm thành kính hay không, có mấy phần tâm thành kính? Nếu như có mười phần tâm thành kính thì khẳng định con người này là pháp khí. Các phương diện khác kém một chút cũng không quan hệ gì, có thể học, có thể bồi dưỡng. Tâm thành kính là căn bản, đây cũng chính là tâm Bồ Đề mà phía trước đã nói. Nếu không có tâm thành kính thì dù tất cả chư Phật đích thân dạy bạn cũng không thể dạy ra được. Vì sao vậy? vì bạn không thể tiếp nhận. Chỉ có thành kính mới có thể tiếp nhận lời dạy. Cái đạo lý này bạn phải hiểu, đương nhiên càng hy vọng chính chúng ta có thể làm được.

Tôn sư trọng đạo phải bồi dưỡng từ nhỏ, càng nhỏ càng tốt. Khi tôi còn nhỏ, tôi học chữ là khi 3 tuổi, phụ thân dạy cho tôi, mẹ tôi thì không biết chữ. Khi tôi 5-6 tuổi thì đến trường tư thục ở nông thôn. Hôm vào học ở tư thục, ấn tượng của tôi cả đời cũng không phai nhạt. Tôi nhớ cha tôi mang theo lễ vật để tặng cho thầy giáo. Chúng tôi đến trường tư thục. Trường tư thục ở trong một cái từ đường, một cái từ đường thờ thân bằng quyến thuộc chúng tôi, trên cùng là bài vị của Khổng Lão Phu Tử, chữ bên trên tôi đều nhận biết, đó là “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử Chi Thần Vị”. Tôi nhớ được rất rõ ràng, cha tôi dẫn tôi dâng hương lên thần vị này, đối với bài vị của Khổng Tử hành lễ tôn kính nhất là tam quy cửu khấu thủ [ba quỳ chín lạy]. Sau khi lạy Khổng Tử xong, cha tôi mời thầy ngồi trên ghế, thầy ngồi ở bên dưới phía trước của bài vị Khổng Tử, cha tôi hướng dẫn tôi hướng đến thầy cũng hành lễ tam quỳ cửu khấu thủ. Chúng tôi còn nhỏ đến như vậy, xem thấy cha mình cung kính đối với thầy giáo như vậy, còn dám không nghe lời thầy hay sao? còn dám không tiếp nhận giáo huấn hay sao? Tôi nghịch ngượm ở trường học bị thầy giáo xử phạt, đánh vào lòng bàn tay, phạt quỳ; khi về nhà đương nhiên vẻ mặt rất khó coi vì bị xử phạt rồi, cha mẹ liền hỏi bị thầy giáo trừng phạt rồi phải không? Ngày hôm sau cha mẹ tôi đưa tôi đi học, cảm tạ đối với thầy giáo, cảm tạ thầy giáo đã hết lòng giáo huấn. Thầy giáo cùng gia trưởng kết hợp mật thiết với nhau, cha mẹ dạy chúng ta tôn sư trọng đạo, thầy giáo dạy chúng ta phải hiếu thuận cha mẹ, anh em thương yêu nhau, thì sự dạy học mới thành tựu được như vậy.

Tâm quang của Phật A Di Đà chỉ nhiếp thủ người niệm Phật

Đây gọi là tiên nhập vi chủ. Tức là từ nhỏ tôi đã tiếp nhận cách giáo huấn này nên cả đời đều theo như vậy mà làm. Đây là cả đời của tôi còn hưởng được loại giáo dục như vậy. Tôi thân cận tiên sinh Phương Đông Mỹ, hy vọng đến trường để nghe ông giảng dạy. Tôi quen biết với thầy bằng cách tự giới thiệu mình, tôi viết một lá thư, tức là tôi viết một bài văn chương gởi đến thầy, xin thầy chỉ giáo và mong thầy chấp nhận cho tôi có thể đến trường để dự thính các buổi giảng dạy của thầy. Một tuần sau thì thầy trả lời thư, thầy hẹn tôi đến nhà để gặp mặt. Nhà thầy ở số 60 đường Cổ Linh là ký túc xá của đại học Đài Loan. Tôi đã đến nhà thầy để gặp thầy. Sau khi gặp mặt nói chuyện, thầy nói với tôi, chú không nên đến trường học, thầy nói trường học hiện tại tiên sinh không giống tiên sinh, học trò không giống học trò, chú đến trường học để nghe giảng thì chú sẽ tràn trề thất vọng. Tôi nghe lời nói này cảm giác giống như nước lạnh tưới lên đầu, thầy giáo đã cự tuyệt tôi rồi, không còn chút hy vọng nào, cảm thấy rất đau lòng, biểu lộ bên ngoài thầy giáo cũng nhìn thấy được. Sau cùng thầy nói với tôi, thầy nói, hay là như vầy sẽ tốt hơn, cứ mỗi chủ nhật hàng tuần, chú đến nhà của tôi, tôi sẽ dạy chú hai giờ. Cho nên tôi học triết học với thầy là ở cái bàn nhỏ tại phòng khách nhỏ trong nhà của thầy, một người dạy cho một người.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Nếu các vị muốn hỏi là do nguyên nhân gì mà vốn không hề quen biết, chưa hề qua lại, tại vì sao người lại dạy cho tôi như vậy? Các vị phải nên biết, không gì khác hơn là thành kính, tôi có mười phần thành kính và thầy đã nhìn thấy được. Nếu như tôi làm thầy giáo thì tôi cũng sẽ nghĩ rằng, có được một học trò muốn học chân thành đến như vậy, nếu tôi không dạy họ thì tôi có lỗi với họ. Chính là dựa vào tâm tôn sư trọng đạo nên thầy đã đặc biệt dạy cho tôi. Vào lúc đó, tôi hoàn toàn không hề biết gì về thầy Phương, tôi chỉ biết thầy là một vị giáo thọ của Trường đại học Đài Bắc, là vị giáo thọ giỏi nên từ trong nội tâm sanh ra tâm ngưỡng mộ, không hề biết thầy là thầy giáo của tổng thống Tưởng Giới Thạch. Tôi theo thầy hai mươi mấy năm thầy cũng không hề nói, nếu như tôi biết thầy là thầy giáo của tổng thống Tưởng thì ngay đến đứng gần cũng không dám, làm sao mà dám đi tìm thầy. Đến khi thầy viên tịch, khi Ngài qua đời, ở trong buổi lễ truy điệu, ông Thái Hiếu Nghĩa đọc về cuộc đời của ông thì tôi mới biết được lão tổng thống cùng Tưởng Kinh Quốc đều là học trò của ông. Đây là một vị thầy thứ nhất.

Vị thầy thứ hai, người giúp tôi tiếp xúc được với Phật pháp là đại sư Chương Gia. Đại sư Chương Gia cũng từ bi giống như lão sư Phương, chủ nhật mỗi tuần đều dạy cho tôi hai giờ đồng hồ. Tôi liền học với Ngài ba năm như một ngày mãi cho đến khi Ngài vãng sanh. Vị thầy sau cùng dạy cho tôi là Cư Sĩ Lý Bĩnh Nam, tôi theo thầy mười năm, thầy đối với tôi cũng rất xem trọng  cũng không vì nguyên nhân gì khác. Tôi lúc đó không có một xu tiền nào cúng dường đối với ba vị thầy này, lúc đó nghèo khổ đến cùng cực, chính mình ăn cơm mà còn khó khăn, thầy giáo nhiệt tâm như vậy dạy tôi, không gì khác hơn chính là hai chữ Thành Kính này. Người mà các thầy tiếp xúc rất nhiều, tại vì sao đặc biệt đãi ngộ đối với tôi như vậy còn người khác thì không được như vậy? Bạn phải nên biết, chân thật là không duyên không cớ, không có bất kỳ một quan hệ nào, mà chính là tâm thành kính. Điều thứ nhất trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện là Lễ Kính Chư Phật, chúng ta mới có thể học Phật được. Thông thường người học Phật ngày nay, cho đến học trò đến trường để cầu học, tôi thấy họ hoàn toàn không có tâm thành kính, đồng tu học Phật hoặc là tín đồ tôn giáo khác còn có một số người có tâm thành kính, nhưng so với thời đại ngày trước thì xuống cấp đến mức trầm trọng. Vậy thì làm sao có thể thành tựu? Tổ chức dạy học là một việc tốt, nhưng có thể thành tựu được nhân tài hay không thì rất là khó nói.

Tại sao gọi là Kết kỳ niệm Phật mà không gọi là Phật thất?

Cho nên tiền đồ của thế giới này, đích thực khiến cho người bi quan. Tuy vậy, trong tình huống này chúng ta chỉ có thể nói là “tận nhân lực mới tri thiên mạng”, mọi việc đều mong cầu Tam Bảo gia trì, cầu tổ tông gia trì; ngoài điều này ra, tuyệt đối không phải là sức người chúng ta có thể làm được. Cho nên chúng ta nhờ vào giáo huấn của Phật, Bồ Tát, Thánh hiền dạy “tri kỳ bất khả vi nhi vi chi”, có thời gian của một ngày thì chúng ta cố gắng làm một ngày, có được một cơ hội thì quyết không bỏ qua, “tận nhân lực mới tri thiên mạng”. Chính mình không hề nghĩ được hay mất, đây chính là trong Phật pháp đã nói: làm mà không làm, không làm mà làm, nên không hề cảm thấy khổ cực, không hề hối hận, không hề thoái chuyển. Mỗi ngày công việc của chính mình là đọc kinh, thâm nhập giáo huấn của thánh hiền. Chúng ta nhất định phải tuân theo lời Phật dạy cho chúng ta là vì người diễn nói, còn đối với chính mình thì mỗi ngày thọ trì đọc tụng, an vui không biết mệt mõi.

Đối với người không luận là ở giảng đường hoặc là đang khi nói chuyện riêng, hai người ba người, đều là luôn ở nơi đạo, không có lời thừa. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, chúng tôi thể hội được, không luận là vào lúc nào, không luận là ở trường hợp nào, không luận gặp bất cứ người nào, Phật giảng nói cho họ nghe đều là kinh điển, ghi chép lại lời nói của Phật chính là kinh điển. Phật không có hý luận, Phật không có lời thừa. Đây là Phật biểu diễn để cho người đời sau xem. Chúng ta xem hiểu rồi thì phải chăm chỉ học tập, không luận là vào lúc nào, luôn lấy chánh pháp dạy người, dùng pháp chân thật lìa khổ để giúp đỡ người khác, thì đó gọi là Phật pháp.

Cho nên tất cả chư Phật, Như Lai đã nói ra pháp môn vô lượng vô biên đều là từ A Di Đà Phật, đều từ cái khởi điểm này mà dẫn khởi ra. Tất cả pháp quy kết đến sau cùng chính là A Di Đà Phật, bạn nghĩ xem, A Di Đà Phật tôn quý đến chừng nào. Đáng tiếc là người nhận biết điều này rất ít, người niệm danh hiệu này thì rất nhiều nhưng họ không biết được sự tôn quý đến chỗ cùng tột của danh hiệu này. Câu danh hiệu này bao gồm hết tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, dịch thành ý nghĩa của Trung Hoa là vô lượng giác, vô lượng trí. Vô lượng chính là tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Đây là danh hiệu tánh đức của tự tánh. Thế giới Cực Lạc có một vị tánh đức hiển hiện viên mãn, hay nói cách khác trong tự tánh trí tuệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng hảo viên mãn, Ngài thảy đều hiển hiện ra hết. Vị này được gọi là A Di Đà Phật. Thành thật mà nói, các chư Phật Như Lai ở trên lý luận thì Phật Phật đạo đồng, không hai không khác, thế nhưng trên mặt sự thì tất cả chư Phật vẫn là có khác biệt.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Sự khác biệt của các Ngài là ở chỗ cái nguyện phát ra từ nơi nhân địa là khác nhau, cho nên trên quả đức liền có khác biệt; trên đoạn chứng thì hoàn toàn như nhau, không hề có chút khác biệt, nhưng nguyện lực thì không như nhau. Những sự và lý này chúng ta tỉ mỉ mà tư duy thì không khó hiểu. Ngày nay đồng tu chúng ta rất nhiều, người học Phật rất nhiều, người tu Tịnh Độ rất nhiều, nhưng nguyện lực của mỗi người không như nhau, có người có nguyện lực là vì tự lợi, vì lợi ích một đoàn thể nhỏ, vì lợi ích một phương, vì lợi ích một chủng tộc, thậm chí vì lợi ích của địa cầu chúng ta. Còn A Di Đà Phật khởi tâm động niệm là vì tận hư không khắp pháp giới. Tâm nguyện này rất là rộng lớn. Cho nên Thế Tôn dạy chúng ta niệm Phật, mười phương chư Phật cũng dạy chúng ta niệm Phật, khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ. Cõi Tịnh độ này là Tịnh Độ của tự tánh, là pháp tánh độ, chúng ta trở về với pháp tánh độ, một chút mê tín cũng không có. Mười pháp giới Y Chánh Trang Nghiêm là pháp tướng độ. Đồng tu đã học qua duy thức thì liền biết, mười pháp giới y chánh trang nghiêm là duy thức sở biến, thế giới Tây Phương Cực Lạc cùng  thế giới Hoa Tạng là duy tâm sở hiện, không hề biến tướng.

Mười pháp giới chính là pháp giới nhất chân, chính là Cực Lạc và Hoa Tạng, nhưng nay đã biến tướng, hình tướng bị biến đổi thành mười pháp giới. Mười pháp giới càng hướng xuống thì biến đổi càng xấu đi so với chân tướng, càng hướng lên trên thì càng gần với Cực Lạc và Hoa Tạng, tuy là biến đổi nhưng mức độ biến đổi không lớn; xuống đến thiên đạo, nhân đạo, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thì sự biến đổi càng lớn. Sự việc chính là như vậy. Cho nên đại đức xưa mới nói, Tịnh Độ chính là cõi này, cõi này chính là Tịnh Độ, Di Đà chính là tâm ta, tâm ta chính là Di ĐÀ, chân tâm chính là Di Đà. Chân tâm vốn dĩ đầy đủ vô lượng trí, vô lượng giác. Đức Phật dạy chúng sanh vì sao không tính công? vì không có công gì để tính, vì bạn thành Phật tức là quay về lại với tự tánh, tất cả đều là vốn có, ngoài trí tuệ đức tướng trong tự tánh vốn có ra thì không có một thêm thứ nào. Khi bạn đang mê hoặc điên đảo, lưu lạc ở sáu cõi ba đường, thì trí tuệ đức tướng trong tự tánh của bạn cũng không hề giảm đi chút nào. Đây là lý, là chân tướng sự thật.

Trên Kinh Bát Nhã nói, phải luôn luôn rõ ràng, luôn phải tường tận thực tướng các pháp, thì sau đó mới biết tự tôn trọng mình. Ta phải tôn trọng chính mình, tôn trọng tánh đức của chính mình, phải tôn trọng người khác, tôn trọng tánh đức của người khác, vì tánh đức của người khác cùng tánh đức của ta là như nhau, tánh đức của chúng ta cùng tánh đức của Như Lai cũng là như nhau. Con người hiểu được tự tôn trọng mình, tự yêu thương chính mình, thì sau đó mới có thể yêu thương, kính trọng người khác. Đó gọi là đại từ đại bi. Cho nên đại sư Ngẫu Ích vừa mở đầu Kinh A Di Đà Yếu Giải, đã đem những thứ này nói được rõ ràng tường tận, nói thông suốt thấu đáo. Chúng ta nghe rồi nếu chân thật là đã nắm được cương lĩnh Phật pháp, thì đời này có lý nào mà không thành tựu! Tôi ngay đời này được pháp hỷ sung mãn là tôi rất cảm kích lão sư Phương, thầy đã đem Phật pháp giới thiệu cho tôi, thầy nói: “Học Phật là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh”. Nay tôi đạt được rồi. Trong giảng đường của chúng ta, di ảnh của lão sư thảy đều đặt trước mặt tôi, khi tôi đọc sách đối diện với thầy, khi tôi giảng kinh dạy học cũng đối diện với thầy, mỗi niệm đều không quên ân đức của thầy.

Nếu không có chỉ dẫn của thầy, không có giáo huấn của thầy thì cả đời này của tôi sẽ khổ không nói ra lời, làm gì được an vui như thế này, làm gì có thể có pháp hỉ xung mãn, thường sanh tâm hoan hỉ. Nhờ thầy dạy bảo, cho nên tôi sâu sắc thể hội được hai câu danh ngôn của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc: “tu thân vi bổn, giáo học vi tiên”. Tức là, đối với chính mình tu thân làm gốc, đối với bên ngoài thì trước tiên là dạy học. Dạy học chính là bố thí, là pháp bố thí thù thắng nhất. Chỗ này mọi người đều xem thấy ở trong kinh giáo, Phật tán thán đối với pháp bố thí là “bố thí bảy báu bằng đại thiên thế giới đều không thể sánh được công đức đem bốn câu kệ trên kinh Phật nói cho người khác nghe”. Lời nói này là thật, không hề hư dối. Dù bạn có được bảy báu trong đại thiên  thế giới, nhưng chưa chắc gì thật an vui. Thế nhưng trong bốn câu kệ này mà khai ngộ thì cái an vui đó, bảy báu đại thiên thế giới quyết không thể so sánh được. Bởi vì sau khi bạn có được bảy báu trong đại thiên  thế giới rồi, bạn vẫn không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, thời gian bạn hưởng thụ có hạn, sau khi hưởng thụ xong, bạn vẫn phải chịu khổ chịu nạn; còn nếu đã ngộ bốn câu kệ của Phật pháp rồi thì một ngộ tất cả ngộ, sẽ triệt ngộ cứu cánh viên mãn, vậy bảy báu làm sao có thể so sánh, không chỉ sáu cõi ba đường không có mà mười pháp giới cũng không có, chân thật là được đại tự tại.

Cho nên đại sư Ngẫu Ích dạy chúng ta, dạy người tu pháp môn Tịnh Độ phải nên chấp trì danh hiệu làm chánh hạnh, không cần tu thêm quán tưởng và tham cứu. Quán tưởng và tham cứu đều thuộc về Tánh tông và Thiền tông, nên không cần phải học những thứ này. Đẳng hạnh, đẳng là đẳng giáo. Quán tưởng, tham cứu, v.v… rất nhiều phương pháp tu hành khác không cần đến, vì trong câu Phật hiệu này đã bao hàm hết tám vạn bốn ngàn pháp môn. Có cần phải học thêm những thứ khác hay không, có cần phải xem thêm hay không? Không cần thiết. Cho nên nói, pháp môn niệm Phật là đơn giản nhất, thẳng tắt nhất, đơn giản dễ dàng đến tột điểm, thẳng tắt nhanh gọn đến tột cùng.

Niệm Phật thì trong tâm phải có Phật (tâm này chính là tâm Bồ Đề, là chân tâm), trong nguyện phải có Phật, trong giải phải có Phật, trong hành phải có Phật. Một tiếng A Di Đà Phật này đã đầy đủ cả Tâm-Nguyện-Giải-Hành. Nghe như vậy thì chúng ta liền hiểu rõ tại vì sao rất nhiều người niệm Phật không có lực, vì họ miệng niệm A Di Đà Phật nhưng trong tâm-nguyện-giải-hành đều không có Phật, tức là không có tâm Bồ Đề, không có 48 nguyện, không hiểu rõ đối với chân tướng sự thật, không có hành trì như Phật, Bồ Tát đã hành trì. Miệng tuy là niệm Phật nhưng thiếu đi thực chất, không có tín tâm. Phải có tâm, tức Tâm-Nguyện-Giải-Hành, tâm miệng phải tương ưng. Cho nên nói: một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật, thì đó thật là biết niệm, cảm ứng sẽ không thể nghĩ bàn. Miệng niệm ra tiếng là tự lợi lợi tha. Tự lợi thì không cần phải nói nhưng lợi tha ở chỗ nào? Là khi người khác nghe được, lợi ích thấp nhất là trong A Lại Da Thức của họ đã gieo được giống Phật. Chúng ta đã đem hạt giống A Di Đà Phật trồng xuống trong A Lai Da Thức của họ là nhờ miệng niệm. Nếu trong đời quá khứ của họ có thiện căn phước đức, thì khi gặp được cái nhân duyên này liền làm cho thiện căn phước đức của họ sống dậy. Cho nên niệm ra tiếng, niệm lớn tiếng là tự lợi lợi tha. Đạo lý này phải hiểu thì sau đó mới biết tu học như thế nào, niệm Phật như thế nào, sẽ niệm được đến pháp hỉ sung mãn. Trong thời đại hiện nay, muốn giáo hoá chúng sanh thì không thể không nghiên cứu giáo lý. Vì sao vậy? vì căn tánh chúng sanh khác biệt không đồng, muốn giáo hóa họ thì phải nói lý luận với họ, cho nên phải xem kinh giáo.

Hiện tại thời gian đã hết rồi, chúng ta nghỉ ngơi vài phút. A Di Đà Phật!

Kính thưa chư vị pháp sư, chư vị đồng tu. Xin mời ngồi! Mời tiếp tục xem.

Hoàng Lão cư sĩ đã dẫn dụng mấy câu của đại sư U Khê trong Viên Trung Sớ, trong Viên Trung Sớ ghi: “ Kim kinh sở thị, sơ tâm phàm phu, đản thị hữu khẩu năng xưng, hữu tâm năng niệm, giai thị tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi chí giản chí dị, chi pháp môn dã”. Đại sư U Khê cùng đại sư Ngẫu Ích đã nói hoàn toàn giống nhau, đã đặc biệt vì hạng phàm phu sơ phát tâm như chúng ta. Đây là từ trên tướng mà thấy. Chúng ta biết được trên Kinh A Di Đà nói rất rõ ràng là, không thể nào dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về nước kia. Do đây có thể biết, đây là từ trên sự mà nói là phàm phu sơ phát tâm, nếu như từ trên lý mà nói thì con người này thiện căn phước đức trong đời quá khứ rất là sâu dày, tuy là người sơ học thế nhưng ngay đời này vừa gặp duyên thì họ liền có Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ.

Sự việc này ở ngay trong đời này của chính chúng tôi cũng thấy được rất nhiều. Thí dụ như người cả đời chưa từng học Phật, không tin tưởng Phật pháp, trước khi lâm chung mấy ngày, có người đem Tịnh Tông,  thế giới Cực Lạc giới thiệu cho họ thì họ liền tin tưởng, họ liền thật làm, hơn nữa họ thật được vãng sanh. Đây là nói rõ nguyện thứ 18 trong Kinh Vô Lượng Thọ: “lâm mạng chung thời nhất niệm thập niệm giai đắc vãng sanh”, và trong Kinh A Di Đà nói với chúng ta là “nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn”, trên sự thật đều có chứng minh. Điều này quyết không phải là ngẫu nhiên, mà chắc chắn là trong quá khứ đời đời kiếp kiếp đã học cái pháp môn này rồi, ngay đời này duyên đã chín muồi. Vậy thì chúng ta có thể tự mình biết được là chúng ta ngay đời này duyên của Tịnh Độ có chín muồi hay chưa? Từ chỗ nào mà biết được trong đời này duyên đã chín muồi hay chưa?

Từ trên Tín-Nguyện-hạnh mà biết được. Nếu tín tâm không có hoài nghi, trong tâm nguyện không có xen tạp, có thể thành kính, chuyên nhất niệm Phật, thì con người này thiện căn chín muồi, con người này ngay trong đời này quyết định đến Thế Giới Cực Lạc để làm Phật.

Sanh đến  thế giới Cực Lạc, cho dù là cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng là ngay đời này thành Phật. Điều này thật không thể nghĩ bàn. Đại sư U Khê nói ngay chỗ này “có miệng xưng niệm, có tâm năng niệm”. Quan trọng là ở câu sau “có tâm năng niệm”, trong lòng thật phải có A Di Đà Phật, trong lòng thật phải có Tịnh Độ. Ngài nói pháp môn này rất là dễ dàng, rất đơn giản, là pháp môn thù thắng không gì bằng. Tiếp theo Đại sư lại nói: “nhược chấp trì danh hiệu, bất vấn nhàn mảng, bất câu động tịnh, hành trụ toạ ngoạ, giai khả tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi chí thiệp chí kinh chi pháp môn dã”. Có rất nhiều đồng tu làm việc bận rộn, không có thời gian tu hành, thì pháp môn này chính là thích hợp nhất, nhàn cũng có thể tu, bận cũng có thể tu, động tức là khi bạn làm việc cũng có thể tu, tịnh tức là nói lúc bạn có thể an tịnh lại, ngồi ở tại một nơi cũng có thể tu, đứng cũng có thể tu, Phật hiệu không hề gián đoạn. Tất cả công tác, chỉ cần công việc không cần đến tư duy, thông thường chúng ta gọi là công việc lao lực mà không phải công việc dùng đến tâm trí, công việc phải dùng đến tâm trí thì đương nhiên không thể niệm Phật, công việc tay chân thì không chút chướng ngại. Trong lòng phải có Phật.

Vào thời nhà Đường có một vị tên là Vương Đã Thiết, người thợ thiết, một nhà bốn người, nhờ làm thiết mà sống qua ngày, một ngày không làm việc thì một ngày không có cơm ăn, cho nên công việc rất là khổ cực. Một hôm có một người xuất gia đi ngang qua cửa tiệm nhà ông, ông liền tiếp đãi người xuất gia, cúng dường một ly nước, ông nói với người xuất gia là công việc của tôi rất là khổ cực, có phương pháp gì có thể giải thoát không? Người xuất gia này liền dạy cho ông niệm A Di Đà Phật, khi dập thiết một búa đánh xuống thì niệm A Di Đà Phật, cất búa lên thì niệm A Di Đà Phật, thời trước thì kéo quạt gió, khi đẩy vào thì niệm A Di Đà Phật, khi kéo ra thì niệm A Di Đà Phật. Vợ của ông xem thấy hỏi ông, ông một mặt làm việc một mặt niệm Phật không mệt hay sao? Ông nói không hề mệt, lúc trước khi tôi không niệm thì cảm thấy rất mệt, hiện tại niệm Phật thì không hề thấy mệt. Niệm được ba năm, ông liền thành công, vãng sanh chính ngay lúc đang làm việc, ông không hề bị bệnh, trước khi vãnh sanh còn nói ra một câu kệ, ông nói “đinh đinh đang đang, luyện lâu thành thép, thái bình sắp đến, tôi vãng Tây Phương”, lúc đó dập cái búa xuống thì ông đứng mà vãng sanh.

Đó chính là đại sư U Khê ngay chỗ này đã nói “sơ tâm phàm phu”. Thế nhưng phải nên biết, ông ấy có thiện căn rất sâu dày, pháp sư dạy ông niệm Phật, ông không hoài nghi, ông không xen tạp, ông có thể phối hợp câu Phật hiệu với công việc của ông, không cảm thấy khổ cực, ông chân thật làm đến được Tín-Nguyện-Chuyên Trì Danh Hiệu, ông đã làm được, cho nên ba năm liền đứng mà vãng sanh. Tự hành chính là hoá tha, những người trong địa phương này xem thấy có một người như vậy, một người niệm Phật đứng mà vãng sanh, thì mọi người đều tin tưởng, rất nhiều người bắt chước theo ông, đó là hoá độ người. Cho nên ông không cần giảng kinh nói pháp, ông dùng thân biểu diễn, hiện thân nói pháp. Trong Vãng sanh truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều có ghi chép truyện ký của ông. Đây là nói rõ, pháp môn này là đường tắt, pháp môn này thành tựu rất nhanh.

Đoạn phía sau Đại sư lại nói: “xưng danh chi pháp”, tức là pháp môn trì danh niệm Phật này “bất trạch hiền ngu”, tức là người hiền cũng niệm A Di Đà Phật được, người ngu cũng có thể niệm A Di Đà Phật được; “bất giản nam nữ, nhược bần nhược phú, nhước quý nhược tiện, giai khả tu chi, cố tri thử kinh sở thị, nãi nhiếp cơ chí quảng”. Pháp môn này đích thực là không giống như các pháp môn khác, các pháp môn khác phải có điều kiện, điều kiện nếu như không đầy đủ thì bạn không cách gì học được. Pháp môn này bất cứ người nào cũng đều có thể học, nghèo giàu sang hèn, người trí kẻ ngu thảy đều có thể tu học. Chỉ cần tin sâu nguyện thiết, thành thực chuyên niệm thì không có người nào mà không thành tựu. Đại sư Thiện Đạo nói rất hay, đây là pháp môn “vạn người tu vạn người vãng sanh”. Nhưng tại sao ngày nay người niệm Phật nhiều như vậy nhưng người vãng sanh thì quá ít? điều này có hoàn toàn trái ngược với lời nói này của đại sư Thiện Đạo hay không? chúng ta nghĩ xem, không có trái ngược.

Đại sư Thiện Đạo nói vạn người tu vạn người vãng sanh, nhưng bạn không có tu mà, bạn chỉ có niệm không có tu nên không thể vãng sanh. Cái gì gọi là tu? Tu là đem tập khí xấu của chính mình thay đổi lại, đó gọi là tu. Nếu bạn niệm Phật tín tâm không đủ, tức là bạn không có tu, bạn phải đem nó thay đổi lại. Bạn tâm nguyện không thiết, xen tạp quá nhiều, Tín-Nguyện-hạnh đều không đạt đến tiêu chuẩn. Không phải kinh này không linh, không phải lời tổ sư nói không đáng tin cậy, mà chính mình phải nghĩ lại xem, là ta có đem những tập khí tâm bệnh này thay đổi hay không. Tu chính là sửa đổi lại. Nói tóm lại, thân tâm  thế giới bạn có phải thật đã buông bỏ rồi không? buông bỏ thì mới có thể đi, buông bỏ mới có thể chuyên tâm, chuyên tâm chính là buông bỏ vọng tưởng, buông bỏ xen tạp, buông bỏ nghi lo, là chuyên tín. Những thứ này bạn chưa buông bỏ, thì nó sẽ chướng ngại bạn, kinh điển không hề chướng ngại bạn, giáo huấn của tổ sư đại đức không hề chướng ngại bạn, bạn phải biết chướng ngại bạn là ở chỗ nào, bạn phải tìm cho ra chỗ chướng ngại, phải trừ bỏ đi chướng ngại thì trên đạo Tịnh Độ mới thuận buồm xuôi gió.

Phía sau Đại sư nói: “hựu, du tâm an lạc đạo vân”. Trong đây đã nói: “chư Phật danh hiệu, tổng vạn đức thành, đản năng nhất niệm, niệm Phật danh giả, tức nhất niệm trung, tổng niệm vạn đức”. Cho nên đại đức xưa thường hay dạy chúng ta, danh hiệu A Di Đà Phật gọi là vạn đức hồng danh. Nếu bạn muốn hỏi tại vì sao, thì phía trước đều nói qua. Câu danh hiệu này bao hàm luôn tận hư không khắp pháp giới, tất cả tánh tướng lý sự nhân quả, không có kém khuyết thứ nào, cho nên gọi là vạn đức hồng danh. Niệm một danh hiệu này tức là thảy đều niệm hết tất cả chư Phật, niệm hết tất cả Bồ Tát, niệm hết tất cả Bích Chi Phật, niệm hết tất cả Thanh văn, niệm hết tất cả chúng sanh sáu cõi. Tất cả đều ở ngay trong câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này thực tế mà nói là không thể nghĩ bàn. Bạn một lòng xưng niệm thì quả báo của bạn trong tương lai chính là tổng thành vạn đức.

Trong Duy Tâm An Lạc Đạo lại nói: “vô thỉ ác nghiệp, tùng vọng tâm sanh, niệm Phật công đức, tùng chân tâm khởi, chân tâm như nhật, vọng tâm như ám, chân tâm trạm khởi, vọng niệm tức trừ, như nhật thỉ sanh, chúng ám tất trừ”. Mấy câu nói này nói được rất hay, trong mấy câu này nói về vấn đề gì? Là nói giác và mê. Chúng ta tuy là mê đã quá lâu, mê từ vô lượng kiếp đến ngày hôm nay không giác ngộ, người xưa có một thí dụ rất hay là “nhà tối ngàn năm”. Hiện tại trên núi có một số thạch động, những cái động đó rất lớn, có thể dung chứa đến mấy trăm người, mấy ngàn người, thạch động lớn đến như vậy nhưng từ trước đến giờ chưa có người phát hiện ra, phần nhiều cửa động đều rất nhỏ, nhìn chung thì chỉ một người đi lọt vào, nhưng bên trong rất lớn. Một mảng tối tăm nhưng đưa một ngọn đèn vào thì liền được chiếu sáng, tối tăm liền bị đẩy lùi. Thí dụ này nói lên rằng, ngu si không phải là thật, trí tuệ mới là chân thật, trí tuệ sanh khởi thì si mê lập tức liền không còn, si mê từ vô lượng kiếp đến nay, chỉ cần bạn vừa giác, thì thảy đều không còn.

Trong Khởi Tín Luận nói rất hay: “bổn giác vốn có, bất giác vốn không”. Si mê là bất giác, vốn dĩ là không có, nên dù có trải qua thời gian lâu đi chăng nữa thì vừa giác là si mê đã không còn. Chúng ta học Phật phải hiểu rõ cái đạo lý này, phải hiểu rõ cái sự thật này, thì tín tâm của chúng ta liền sanh khởi lên, tín tâm liền có thể thêm lớn. Tín tâm thanh tịnh liền sanh trí tuệ. Trên Kinh Kim Cang nói: “tín tâm thanh tịnh, tất sanh thật tướng”. Thật tướng Bát Nhã là tự tánh vốn có, tâm thanh tịnh đến trình độ nhất định thì trí tuệ liền hiện tiền. Đây là sự thật. Ngày nay trí tuệ chúng ta không sanh khởi, tín tâm hoàn toàn không có, một cái khó trước nhất là không tin chính mình có thể thành tựu.

Tôi cũng gặp rất nhiều đồng tu đến hỏi tôi, họ nói: Pháp sư à! Ngài xem tôi thế này có thể có được thành tựu hay không? Tôi trả lời họ, tôi khẳng định họ không thể có được thành tựu. Họ hỏi tại sao vậy? tôi trả lời vì họ không có lòng tin thì làm sao họ có thể có thành tựu. Ở trong thế pháp cho dù việc nhỏ, nếu muốn thành tựu vẫn phải có lòng tin, bạn không có lòng tin thì làm không thành công. Xào rau nấu cơm mà bạn không có lòng tin thì cũng không thể làm xong được dù đây là việc nhỏ. Bạn có lòng tin thì bạn nhất định làm được tốt. Ngày hôm nay rau xào không được ngon, ngày mai ta lại cải tiến, ngày ngày cải tiến thì sau một tuần lễ, khi bày ra thì sẽ rất là vừa ý, mọi người nhất định sẽ rất hoan hỉ. Cho nên thế xuất thế gian pháp, tất cả mọi việc có thành tựu đều phải nhờ vào lòng tin. Những khai thị của tổ sư đại đức đều là giúp cho chúng ta tăng trưởng tín tâm, thành tựu lòng tin.

Trong An Lạc Tập dẫn chứng Quán Phật Tam Muội Kinh, trong đó có đoạn này rất quan trọng: “Phật khuyên phụ vương hành niệm Phật Tam Muội, Phụ vương bách Phật, Phật điạ quả đức, chân như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, hà nhân bất di đệ tử hành chi. Phật cáo phụ vương, chư Phật quả đức, hữu vô lượng thâm diệu cảnh giới, thần thông giải thoát, phi thị phàm phu, sở hành cảnh giới, cố khuyên phụ vương, hành niệm Phật Tam Muội”. Ở nhân gian, người thân nhất không ai hơn cha với con, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng pháp môn gì để khuyên phụ thân của Ngài? Ngài dùng pháp môn niệm Phật, không hề dùng các pháp môn khác để khuyên phụ thân của Ngài, không hề dạy phụ thân Ngài Tham thiền, cũng không hề dạy phụ thân Ngài niệm chú, cũng không dạy phụ thân Ngài học giáo, chỉ dạy ông niệm Phật.

Các vị từ ngay nơi đây mà nghĩ xem, tóm lại một câu mà nói, thì vô số thị hiện Phật làm ra cho phàm phu chúng ta xem đều hiển thị pháp môn này là không thể nghĩ bàn, pháp môn này thù thắng không gì bằng, để sau đó bạn mới hết lòng hết dạ một môn thâm nhập, không còn khởi lên các vọng niệm khác, bạn cũng có thể buông bỏ các pháp môn. Pháp môn này thành tựu rồi thì tất cả pháp môn đều thành tựu, cho nên gọi là “một kinh thông, tất cả kinh thông”. Ở trong hành môn, một pháp môn khế nhập thì tất cả các môn đều khế nhập, nếu còn có một môn không thông, chưa khế nhập, chính pháp môn bạn đã tu cũng không viên mãn, vẫn còn kém khuyết. Cái đạo lý này phải hiểu, nếu như bạn không hiểu, bạn tu học sẽ tăng thêm rất nhiều khó khăn. Khó ở chỗ nào vậy? Bạn thấy trong Đại Tạng Kinh có kinh luận nhiều đến như vậy, bạn đọc xem thảy đều rất hoan hỉ, vậy thì hỏng rồi, vì đến sau cùng thì bạn cũng không học tốt được thứ nào. Đây là do nguyên nhân gì vậy? Do tâm của bạn tán loạn, tinh thần ý chí đều không thể tập trung, huống chi tuổi thọ con người ở thế gian này có hạn, bạn có bao nhiêu thời gian để học tập, bạn có thể học được bao nhiêu? Những vấn đề này chúng ta có xét nghĩ đến hay không? Cho nên tu học thế xuất thế gian pháp đều có bí quyết, bạn cần phải nắm chắc bí quyết này. Bí quyết này là gì? Là một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu.

Cần phải thông đạt một môn này. Làm thế nào mới có thể thông đạt một môn? Trong Thiền tông nói “minh tâm kiến tánh” thì thông rồi, trong giáo hạ nói “Đại khai viên giải” thì thông rồi, trong pháp môn niệm Phật nói “nhất tâm bất loạn” là thông đạt rồi. Trong nhất tâm bất loạn có lý nhất tâm và sự nhất tâm. Sự nhất tâm dù đã thông nhưng vẫn chưa thấu triệt, lý nhất tâm thì thấu triệt. Lý nhất tâm cùng minh tâm kiến tánh của thiền tông là như nhau, cùng Đại khai viên giải là như nhau. Sự nhất tâm vẫn còn chưa đạt đến điều này, sự nhất tâm là bạn được định rồi, định trong Giới-Định-Huệ, bạn được định nhưng chưa khai ngộ, lý nhất tâm là khai ngộ. Đạt được sự nhất tâm cũng không dễ dàng, cũng rất là đáng quý, tuy là chưa thể thông hết nhưng có thể thông một bộ phận.

Ngày trước lão sư dạy chúng tôi, giáo lý và giáo nghĩa. Trong pháp môn Tịnh Độ, lý nhất tâm là thông giáo lý, đó là thông đạt tất cả, không có thứ nào không thông, sự việc này rất khó, người thượng thượng căn mới làm được, không phải người trung hạ căn có thể làm được. Mục tiêu của người trung hạ căn tánh là phải định ở giáo nghĩa. Giáo nghĩa có thể thông cục bộ, thông bổn tông thì thông Tịnh Độ tông, các tông phái có quan hệ với Tịnh Độ cũng rất dễ dàng thông đạt. Đó gọi là khéo học, bạn biết học. Người không biết học thì ghi nhớ câu kinh văn, câu nói này thầy giáo nói thế nào họ đem nó ghi chép lại, họ cũng có thể giảng lại, đó là phương pháp dạy sơ học, vậy thì không phải là khéo học. Bạn học một bộ kinh chỉ biết một bộ kinh, còn người ta học một bộ kinh có thể biết được mười bộ, giáo nghĩa thông đạt, họ học thông một bộ thì tất cả kinh giáo họ đều thông. Đây là giáo lý. Thầy giáo dạy học trò, phải đem những đạo lý này, những sự thật này và áo mật đều phải nói cho học trò biết. Trong lòng học trò hiểu rõ rồi thì mới chịu y giáo phụng hành, lão sư không lừa gạt ta.

Tôi ở trong hội của lão sư Lý mười năm, chỉ học 5 bộ kinh, không nhiều. Tôi học bộ thứ nhất đó là nền tảng kinh Tiểu Thừa, chân thật là vào cửa từ Tiểu Thừa, đó là bộ A Nan Vấn Phật Sư Kiết Hung Kinh. Trước tiên học Tiểu Thừa, sau đó mới học Đại thừa. Tôi học bộ thứ hai là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, bộ thứ ba là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, bộ thứ tư là Kinh Kim Cang, bộ kinh thứ năm là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Đây là mười năm tôi ở dưới hội của lão sư Lý. Tiêu chuẩn của lão sư ngài là chỉ học một bộ, một bộ đó nếu có thể lên đài giảng mà thầy ngồi phía nghe thấy hài lòng thì mới được, mới cho phép bạn học bộ thứ hai. Nếu như ông không đồng ý, tức là bạn giảng mà ông cho rằng vẫn chưa đủ tốt, thì bạn chỉ có thể giảng bộ này thôi, phải giảng qua rất nhiều lần cho đến khi ông vừa lòng, bạn yêu cầu học bộ thứ hai thì thầy mới đồng ý. Những học trò của thầy ở Đài Trung, bạn học của tôi có hơn 20 người, người học 5 bộ kinh đại khái chỉ có một mình tôi, các sư huynh đệ của tôi thông thường đều là học hai bộ hoặc ba bộ.

Đây là thầy chân thật dạy cho bạn một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu. Khi bạn tu học công phu có lực thì trí tuệ liền khai mở, công phu có lực thì phiền não nhẹ, trí tuệ tăng trưởng; bạn xem kinh văn thì bạn liền có thể biết được đại ý, bạn lại xem chú giải của tổ sư thì bạn liền biết được, ở thời đại hiện nay, cách giảng kinh này phải như thế nào? cách học phải ra sao? Bạn liền thông đạt điều này. Việc này chúng ta không thể không biết, Lão sư thương yêu học trò như cha mẹ thương yêu con cái, thì làm gì có chuyện lừa gạt chúng, làm gì có chuyện hạn chế chúng. Nếu như thầy giáo hạn chế học trò, cha mẹ hạn chế con cái, là không có từ bi, không có lòng yêu thương. Cho nên giáo đạo của thầy quyết định là có đạo lý, bạn không cần phải hỏi, bạn chỉ cần y giáo phụng hành, khẳng định tương lai có lợi ích, trước mắt nhất định phải tuân thủ những quy cũ ràng buộc đó. Đây là yêu cầu của thầy giáo đối với học sinh. Nếu như học trò vâng lời trước mặt làm trái sau lưng, thầy giáo có biết hay không? Biết được! Thầy giáo không một chút hồ đồ, thầy giáo sẽ rất khách sáo đối với bạn, thầy sẽ không đối đầu với bạn. Hay nói cách khác, bạn có thể tiếp nhận bao nhiêu thì tiếp nhận bấy nhiêu, hay nói cách khác đối với việc hy vọng bạn kế tục huệ mạng của Phật, gánh vác gia nghiệp Như Lai đã không còn nữa, vì Thầy biết được bạn không làm được. Tại vì sao không làm được? vì bạn không nghe lời thầy thì làm thế nào thành tựu. Tuân theo giáo huấn của thầy giáo thì thành tựu, phàm hễ trái với lời giáo huấn của thầy giáo thì quyết định không thể thành tựu. Xưa nay trong ngoài đều không có ngoại lệ.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Tóm lại mà nói, cái gốc của gốc của pháp thế gian và xuất thế gian chính là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng”. Phụng sự sư trưởng quan trọng nhất chính là y giáo phụng hành. Bạn chân thật có thành kính đối với thầy giáo, thì thầy giáo nhất định có trách nhiệm đối với bạn, thầy phải chăm sóc bạn, phải dẫn bạn vào chánh đạo. Vị thầy giáo như vậy mới khiến cho người cung kính, mới làm cho đại chúng xã hội tôn kính, thầy giáo quyết định sẽ không để bạn đi vào con đường khó khăn, sẽ không để bạn tạo tác lỗi lầm. Đây là vị thầy rất tốt. Cho nên kinh nghiệm cả đời này của tôi, khẳng định hai câu phía trước của Tịnh Nghiệp Tam Phước là đại căn đại bản. Con người bất hiếu cha mẹ, không kính sư trưởng thì sẽ không có bất cứ thành tựu gì, chư Phật, Bồ Tát cũng không thể giúp được. Bạn không thể nào không biết nến tảng của nền tảng chính là ngay chỗ này.

Đức Phật dạy: Con người tránh giết, nên phóng sinh, ăn chay, niệm Phật, thực có thể nói là lòng hiếu từ vô tận

Trong phần kinh văn trích dẫn nêu trên còn có một số câu văn, tuyệt nhiên không khó hiểu, đồng tu xem qua thì có thể hiểu được rồi. Sau cùng có mấy câu rất quan trọng, chúng ta đem nó đọc qua: “Phật cáo phụ vương, tất cả chúng sanh, tại sanh tử trung, niệm Phật chi tâm, diệc phục như thị. Đản năng hệ niệm bất chỉ, định sanh Phật tiền, nhất đắc vãng sanh, tức năng cải biến, nhất thiết chư ác, thành đại từ bi, như bỉ hương thọ, cải Y Lan Lâm”. Câu nói này vô cùng quan trọng, Y Lan là tiếng Phạn, là tiếng Ấn Độ, là tên một loại cây cỏ không tốt, Phật dùng nó để thí dụ ba độc mười ác của chúng sanh, trong lòng chúng ta có ba độc mười ác thì giống như rừng y lan vậy. Phật nói với phụ thân của Ngài, tất cả chúng sanh ở trong sanh tử, tức là ở ngay trong sáu cõi, cái tâm niệm Phật cũng là như vậy. Đó là Ngài vì phụ thân của ngài nêu ra một thí dụ, dùng loại thực vật này để làm thí dụ, loại thực vật không tốt, diện tích rất là rộng lớn, thế nhưng ở trong đó có một cây Ngưu Đầu Chiên Đàn, đó là một loại cây Chiên Đàn rất là quý giá; tuy là cây này có gốc có rễ, nhưng nó vẫn chưa lớn lên, nó bị một mãng rừng thực vật không tốt quấy nhiễu nó. Nếu như cây Chiên Đàn này mọc lên, dần dần lớn lên, thì loại cây này có mùi hương, có thể cải thiện cả một mãng thực vật không tốt này.

Người thông thường xem thấy tình hình này cảm thấy rất là hy hữu. Một cây chiên đàn mà có thể cải thiện cả một mãng rừng Y Lan to lớn, điều này cảm thấy rất là hy hữu. Phật dùng cái thí dụ một người niệm Phật có thể cải thiện con người của một khu vực tạo ra ác nghiệp này, người xưa Trung Quốc cũng thường hay có cách nói này. Bạn xem thấy trong Ung Chánh Thượng Vụ, đối thoại của Tống Văn Đế và Hà Thượng Chi thì rất rõ ràng, ngay trong mười người có một người thiện, con người thiện này liền có thể giúp được chín người ác kia cải đổi hướng thiện; ngay trong một trăm nhà có một nhà làm thiện, tu năm giới mười thiện, thì nhất định có thể thay đổi được 99 nhà kia. Cho nên chúng ta không sợ chúng sanh tạo tác trọng tội, mà chỉ sợ chính mình không thật tu, không có thật đức. Nếu chân thật tu hành, chân thật có đức thì quyết định có thể cảm hoá họ.

Gần đây, chúng ta ở Lô Giang thành lập trung tâm giáo dục văn hoá, đó là một trấn nhỏ, cư dân trong đó có 48 ngàn người, đồng tu trong trung tâm chúng ta, bao gồm tất cả nhân công thì có khoảng 100 người. Một trăm người này thực hành Đệ Tử Quy, đem mỗi câu mỗi chữ Đệ Tử Quy đều làm cho được, liền có thể ảnh hưởng được 48 ngàn cư dân ở cái trấn nhỏ này. Các vị xem họ nói trong đĩa VCD, họ vừa mới làm được 3 tháng. Chúng tôi nghĩ, nếu công việc của chúng tôi làm 3 năm không gián đoạn, không giải đãi, chúng tôi sâu sắc tin tưởng rằng, sau 3 năm thì cái trấn nhỏ này, như trong sách cổ Trung Quốc có ghi chép là “Lễ nghĩa chi bang”. Chủ tịch Hồ đã đề xướng xã hội hài hoà, thì phải có người dẫn đầu, thiểu số người có thể dẫn đầu số đông người. Cho nên ngay chỗ này Phật đã nói, tất cả chúng sanh ở ngay trong sanh tử, cái tâm niệm Phật cũng là như vậy, cái tâm niệm Phật thì rất ít, không nhiều, thế nhưng nếu có thể niệm liên tục không ngừng, chăm chỉ nổ lực, không nên giải đãi, thì công phu của bạn dần dần sẽ lớn mạnh. Đến khi công phu thuần thục rồi, liền sanh ra sức ảnh hưởng.

Cho nên nói, nếu có thể niệm liên tục không ngừng nghỉ, chắc chắn thấy Phật, chắc chắn được vãng sanh; ác nghiệp, phiền não, tập khí từ vô lượng kiếp đến nay, thảy đều thay đổi hết; phiền não biến thành trí tuệ, ác nghiệp biến thành thiện nghiệp, thành đại từ bi, thì giống như một cây Chiên Đàn có thể cải thiện được một rừng cây nghi lan vậy. Phía sau Hoàng Lão cư Sĩ có chú giải, đem cái thí dụ này vì chúng ta giải thích, rừng Y lan thí dụ cho ba độc trong tâm của chúng sanh, cây Chiên Đàn đó là thí dụ cho cái tâm niệm Phật của chúng sanh, “tài dục thành thọ giả, vị nhất thiết chúng sanh, đản năng tích niệm bất đoạn, nghiệp đạo thành biện dã”. Chỗ này chúng ta phải tin tưởng, đối với xã hội hiện tại của chúng ta mà nói, có thể tiêu trừ được kiếp nạn, có thể cứu xã hội, giúp cho xã hội này khôi phục lại an định hoà bình. Niệm Phật công đức không thể nghĩ bàn.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!

Vu Lan Bàn Về Lý Luận Và Sự Thật Của Việc Siêu Độ

 

Tháng bảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian địa phủ xuất hiện ở nhân gian. Vì vậy trong tháng này, việc Phật sự siêu độ theo đó cũng rất bận rộn. Một số thắc mắc được đặt ra: “Liệu việc siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay không? Việc siêu độ có nhất thiết phải do người xuất gia thực hiện hay không?”

Nhà Phật có phương pháp và lý luận của việc siêu độ rất hợp tình, hợp lý và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô lớn này lại không thường thấy trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong kinh điển đại thừa Trung Quốc phiên dịch, ghi chép việc này rất rõ ở “Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện kinh”. Trong kinh cho thấy nữ Bà la môn, nữ Quang Mục đều là người trẻ tuổi hiếu thảo. Cha mẹ của họ do thiếu tri thức đã tạo nhiều nghiệp tội phải đọa vào ba đường ác.

Chúng sinh tạo tác nghiệp tội, gieo nhân lúc sinh thời

Đức Phật nói, mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra. Cũng giống như trong mộng, cảnh giới trong mộng tuy không thật, nhưng không thể nói nó không có. Tình trạng sáu cõi cũng vậy, do vọng tưởng, phân biệt, cộng thêm chấp trước nghiêm trọng liền biến hiện ra tướng sáu cõi luân hồi. Hay nói cách khác, nếu chúng sinh không vọng tưởng, phân biệt chấp trước, không những không có lục đạo, mà mười pháp giới cũng không có.

Vì vậy đức Phật nói, những hiện tượng này như mộng huyễn, và những hư ảo này chỉ tồn tại khoảng thời gian không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ “Như sương cũng như điện”. Sương là giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, thời gian tồn tại của nó không dài. Điện là tia chớp, thời gian tồn tại càng ngắn hơn. Trong kinh Bát Nhã, đức Phật cũng đem chân tướng sự thật này nói rất rõ ràng tường tận. Lý luận và phương pháp siêu độ cũng không rời khỏi nguyên lý này.

Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật. Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, tâm vẫn còn sợ hãi. Cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ lại thật. Sống trong ác đạo phải thọ những khổ đau này. Kinh điển có ghi chép, A La Hán là người đắc đạo, không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá khứ, nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm kiếp quá khứ, bao gồm những việc khổ vui đã nhận chịu, hoặc ngay trong năm trăm đời đã từng đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnh trong địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm còn run sợ, thậm chí toàn thân rướm máu.

Phương thức quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới

Đức Phật dạy người không vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiên không vọng ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật. Do đó phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Người tạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt cũng không phải Phật Bồ tát trừng phạt. Phật Bồ tát đại từ đại bi, tuyệt đối không trừng phạt người ác. Đức Phật vẫn nói “tự làm tự chịu”, mỗi người tự tạo loại nghiệp thì tự nhiên sẽ cảm được quả báo, nhân quả nghiệp báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảng rõ ràng, nhưng lý cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu cũng không có tuổi thọ dài để lĩnh hội.

Cho nên ngài dạy chúng sinh chọn lấy phương pháp tự nhiên đơn giản, đó là phương pháp quy nạp. Đức Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới, từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên cao.

 Nghiệp nhân của địa ngục: là sân hận, tâm sân cảm địa ngục. Người mang tâm sân hận nặng, chắc chắn sinh đố kỵ, thủ đoạn tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu cảm quả báo địa ngục thì tự nhiên biến hiện ra cảnh giới địa ngục.

 Nghiệp nhân của ngạ quỷ: là tham không chán, tức hưởng thụ chiếm hữu, giành giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần bất chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, không xả cho người khác, liền biến hiện ngạ quỷ.

 Nghiệp nhân của súc sinh: là ngu si. Không có năng lực phân biệt chân vọng, không phân biệt chánh tà, thậm chí thị phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ, không có năng lực phân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào đường súc sinh.

Ba đường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của chính chúng ta, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực.

 Nghiệp nhân của cõi người: là luân thường mà trong Phật pháp gọi là “ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc còn gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” tương đồng với nội dung ngũ giới của nhà Phật. Con người ngay trong đời, mọi sinh hoạt, lời nói việc làm đều phải tuân thủ nguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người trong lục đạo. Hoàn toàn không có ngẫu nhiên

 Cõi trời: phước báu của cõi trời cao hơn so với cõi người, do đó điều kiện cũng cao hơn so với cõi người. Muốn đến cõi trời phải tu mười thiện, tư tưởng hành trì phải tương ứng với mười thiện bao gồm: thân không sát sinh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối, nói hai chiều, nói lời ác, thêu dệt; ý không tham, sân, si. Ngoài ra còn pháp thiện cũng từ trong mười điều thiện này mà sinh ra. Người có thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp với việc giữ tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứ vô lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm: từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.

 Cõi A tu la: người tu ngũ giới mười thiện nhưng không có tứ vô lượng tâm, quả báo của họ biến thành Tu la. Không có tứ vô lượng tâm, hưởng phước rồi mê hoặc, điên đảo. Trong kinh đức Phật nói, A Tu La không đoạn được tham sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp thiện, tu ngũ giới, họ có phước báu lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. Vì thế A tu la có tính cách hung bạo, háo thắng, đố kỵ. Chẳng hạn, người mang tâm háo thắng mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định giành thắp hương đầu tiên, không bằng lòng đứng sau người khác. Họ có tu thiện không? Có, họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo luôn rơi vào đường Tu la.

Đức Phật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh, bồ tát đạo, tu tâm khiêm hạ, khiêm tốn nhường nhịn. Xem trong kinh Hoa Nghiêm thấy được 53 vị đồng tham, 53 vị pháp thân đại sĩ đều là Phật bồ tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường tôn kính, không một chút ý niệm ngạo mạn, không háo thắng.

Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức. Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa thì kết quả biến thành A tu la. Hướng lên trên là các thanh văn tu tứ đế, “khổ tập diệt đạo”, bậc duyên giác tu “thập nhị nhân duyên”, bồ tát tu “lục đạo”, chư Phật tu “bình đẳng”. Thanh tịnh bình đẳng chính là Phật đạo. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đem nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới qui nạp lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta giúp mọi người hiểu rõ nguyên nhân của quả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc học Phật không thể không hiểu, không thể không biết.

Công đức siêu độ mẹ được nêu trong kinh Địa tạng

Đối với khởi tâm động niệm, chúng ta sẽ tự biết tương ứng với đường nào. Không hiểu đạo lý, không biết chân tướng sự thật, làm càng làm quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ác đạo. Dù có con hiền cháu thảo cũng khó lòng giải trừ được, huống hồ xã hội hiện nay người hiếu thảo càng ngày càng ít. Trong kinh Địa tạng, nữ Quang Mục, nữ Bà la môn là những hiếu tử, thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp, rơi vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ. Tâm chân thành liền cảm động Phật bồ tát.

Cần hiểu rõ Phật bồ tát không thể cứu giúp, các ngài chỉ có thể đem phương pháp lý luận cứu giúp truyền lại cho chúng sinh. Phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượng vô biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất. Nữ Bà la môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa Định Như Lai, tuy không niệm Phật A Di Đà, nhưng niệm Giác Hoa Định Như Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này vì muốn cứu khổ nạn cho mẹ, cô thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà gặp quả báo địa ngục. Theo lời Phật dạy, cô dụng công niệm Phật bằng tâm khẩn thiết. Sau khi nỗ lực hết mình, niệm một ngày một đêm thì cô được định.

Trạng thái nhất tâm bất loạn trong niệm Phật thuộc về sự công phu rất cao. Tâm của phàm phu là tán loạn. Niệm đến nhất tâm bất loạn tương đương với A La hán của tiểu thừa, rất khó đạt được. Kinh Địa Tạng là kinh đại thừa, nữ Bà la môn không phải là A la hán của tiểu thừa nhưng công phu đoạn chướng của cô tương đương A la hán, công đức tu tích vượt lên trên A la hán, ngang hàng bồ tát. Đến cảnh giới định cô liền nhìn thấy địa ngục biến hiện ra.

Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô liền cung kính gọi bồ tát và lễ phép chào hỏi. Cô liền hỏi quỷ vương về mẹ cô hiện ở nơi nào trong địa ngục. Quỷ vương chắp tay kính cẩn chúc mừng rằng nhờ cô phát nguyện siêu độ nên bà ấy đã thoát khỏi địa ngục, được sinh lên cõi trời. Cách siêu độ rất hiệu nghiệm mà không cần phải mời pháp sư đến tụng kinh, bái sám. Tự thân niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, rồi dùng công đức này hồi hướng cho cha mẹ. Chúng ta nhất định phải thể hội chân thành. Tu hành chứng quả không dễ, tại sao nữ Bà la môn chỉ trong một ngày một đêm có thể niệm đến nhất tâm bất loạn? Nếu mẹ cô không đọa địa ngục, không bị những khổ nạn, thì cô sẽ không có động lực tha thiết niệm Phật đến vậy.

Ngày nay chúng ta niệm Phật nhiều năm tại sao ngay cả công phu cũng không đạt được huống hồ nhất tâm bất loạn. Đó là do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu rơi vào A tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta mới toàn tâm toàn lực muốn cứu giúp. Đức Phật truyền trao phương pháp này, chúng ta hãy nỗ lực tu thành. Mẹ của nữ Bà la môn đã làm tăng thượng duyên cho cô, nếu bà không bị đoạ địa ngục thì cô sẽ không có thành tựu này.

Vậy nguồn gốc sâu xa là mẹ cô đã giúp cô, cô cũng giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành bồ tát, quỷ thần đối đãi cung kính với mẹ cô, không thể đối đãi như những tội nhân thông thường. Kinh nói “bảy phần công đức, mình được sáu phần”, phần còn lại hồi hướng cho thân bằng quyến thuộc. Đôi bên đều được công đức mới thật sự viên mãn.

Muốn siêu độ cho thân bằng quyến thuộc, chúng ta phải chăm chỉ tu hành, tích công lũy đức, thật tâm siêu độ. Việc tu hành thành tựu thì người thân mới được độ. Cũng như ở thế gian, muốn cho cha mẹ tự hào, thân bằng quyến thuộc và mọi người trong xã hội tôn kính, chúng ta phải thành tựu học vấn, thành tựu đức hạnh của mình. Đi đến đâu, chúng ta cũng được đặc biệt tôn trọng, quan tâm, chiếu cố. Đó chính là cảm ứng tự nhiên, là đạo lý. Khi hiểu rõ đạo lý này, lúc đó chúng ta có thể liên tưởng đến nguyên lý vừa nêu trong kinh Địa Tạng. Siêu độ nếu có công đức, có thể giúp đỡ vong gia đã tạo tác nghiệp tội.

Câu chuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của cô không thù thắng như nữ Bà la môn. Cô cũng niệm Phật, trong thời gian rất ngắn đạt được cảnh giới định trong mơ. Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Cô có được cảnh giới trong mộng cũng được xem là thành tựu.

Chúng ta hết lòng muốn cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu học, thành tựu của chúng ta cũng chính là thành tựu của họ, ta không thành tựu, thì họ cũng không. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch.

Siêu độ trong tự truyện

“Cảnh trần hồi ức lục” của pháp sư Đàm Hư, Trung Quốc

Lão pháp sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên “Cảnh trần hồi ức lục”do đệ tử của ông là Đại Quang pháp sư ghi chép lại, quyển sách này lưu thông rất phổ biến ở Đài Loan, bên trong có một đoạn nói về việc siêu độ. Vào lúc đó Đàm lão chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn, hơn 40 tuổi. Trước khi xuất gia, ông đã học Phật và rất dụng công. Trước lúc xuất gia ở Thiên Tân, ông cùng mấy vị đồng đạo hợp nhóm cùng nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm lạnh giá. Trong số các bạn ông, có một vị họ Lưu mở tiệm thuốc Bắc cũng rất tâm đắc và lĩnh ngộ đối với kinh Lăng Nghiêm.

Tuy sự công phu còn kém xa so với nữ Bà la môn và nữ Quang Mục trong kinh Địa tạng nhưng sự công phu của vị họ Lưu cũng có hiệu quả. Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, ông Lưu ngủ gục trên quầy. Lúc đang ngủ, ông Lưu mộng thấy có hai người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan gia trái chủ của ông, họ thiếu nợ ông, và ông tìm đến họ đòi nợ. Hai người này vì không có khả năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau vì việc này, ông Lưu thường cảm thấy rất khó chịu, nếu ông không tìm họ đòi nợ, thì hai người này sẽ không treo cổ. Ông luôn cảm thấy hối tiếc và ăn năn về điều đó.

Bây giờ nằm mộng gặp lại họ nên ông rất sợ bị gây phiền phức. Tuy nhiên hai người này vẻ mặt hiền lành, không bày tỏ thái độ muốn đến hại ông. Cho nên ông hỏi họ: “các người đến làm gì?” Hai người trả lời: “chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu liền được an, không lo sợ bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp: “vậy phải siêu độ thế nào cho các người?”. Họ nói: “chỉ cần ông đồng ý là được”. Ông Lưu gật đầu: “được, tôi đồng ý”. Lập tức hai linh hồn này đạp vào đầu gối và đạp vào vai ông rồi được sinh lên trời.

Hai người này đi không bao lâu, lại có hai người nữa, chính là vợ con ông đã qua đời. Họ cũng đến quỳ trước mặt ông cầu xin siêu độ. Ông liền hỏi: “làm thế nào để siêu độ?”. Cũng như lần trước, ông bằng lòng và thấy hai hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sinh thiên. “Cảnh trần hồi ức lục” còn ghi rõ, siêu độ cần phải do chính chúng ta có công phu tu học. Không có công phu, không thể siêu độ cho người khác. Công phu của ông Lưu là tám năm lạnh giá học Lăng Nghiêm.

Nguồn gốc hình thức siêu độ quy mô lớn

Chúng ta có thể đem câu chuyện trong “Cảnh trần hồi ức lục” cùng kinh Địa Tạng hợp lại mà khẳng định, loại Phật sự siêu độ qui mô lớn thời hiện đại không hề tồn tại vào thời đức Phật. Thời gian đầu học Phật, chúng tôi cũng có nghi vấn về việc này và đã từng thưa hỏi với pháp sư Đạo An.

Năm xưa chúng tôi có mối quan hệ rất tốt với pháp sư Đạo An. Pháp sư Đạo An thành lập đại chuyên giảng tòa ở Đài Bắc, mời chúng tôi đảm nhiệm tổng chủ giảng. Chúng tôi liên lạc qua lại từ lúc ở Tòng Sơn tự sau đó dời đến cạnh Thiện Đạo tự ở tầng trên của đại giảng đường hội Phật giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một lần. Khi đó học sinh rất đông, khoảng hơn 800 người, miền Bắc từ Cơ Long, miền Nam từ Tân Trúc. Đó là thời kỳ hưng thịnh của hội Phật giáo. Pháp sư Đạo An là người phụ trách kiêm chủ tịch giảng tòa. Vào lúc đó ngoài chúng tôi, còn có pháp sư Ấn Hải, pháp sư Trí Dụ cùng phụ trách dạy học.

Chúng tôi đã thỉnh giáo với lão pháp sư Đạo An rằng: “việc siêu độ từ đâu mà ra?”. Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói đại khái, căn gốc của việc siêu độ là từ vua Đường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi Quách Tử Nghĩa bình định động loạn, triều đình ở mỗi một chiến trường lớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên tự, vì xây dựng vào niên hiệu Khai Nguyên. Xây dựng tự miếu này mục đích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hội siêu độ đó cũng giống như lễ truy điệu hiện nay. Mời một số cao tăng đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng, truy điệu nhằm mang ý nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng. Sau này dân gian dần dần bắt chước theo, cũng mời pháp sư, đại đức tụng kinh, bái sám siêu độ tổ tiên.

Do đây mà biết, trước năm Khai nguyên không có việc này. Pháp hội siêu độ của Khai nguyên về sau đích thực phát triển nhưng đến nay đã hoàn toàn biến chất. Trước đây, siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi năm không quá hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu hành. Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng, Phật giáo ở thế gian là độ người chứ không độ quỷ, độ người sống chứ không độ người chết.

Phương thức tu học xưa và nay

Trước đây tự viện trong Tòng lâm Ấn Độ nhìn chung hoạt động hai thời giảng kinh, hai thời tu hành. Người Ấn Độ xưa chia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật; ba thời ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ. Trung Quốc xưa sử dụng mười hai thời: Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi… Còn hiện tại, chúng ta đang dùng đơn vị thời gian của Tây phương, tức là ngày đêm gồm hai mươi bốn tiếng. Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung Quốc, hai thời khắc của Trung Quốc mới là một thời khắc của Ấn Độ. Thời xưa, tự viện Tòng lâm giảng kinh hai thời, tương đương tám tiếng đồng hồ hiện nay.

Tự viện là trường học dành cho người xuất gia và cư sĩ thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi danh nghe kinh. Thông thường giảng một bộ kinh phải mất ít nhất ba tháng đến một năm. Cư sĩ được đồng ý phê chuẩn có thể ở lại một năm trong tự viện, cúng dường phí dụng sinh hoạt, đồng thời làm công quả như quét nhà, dọn dẹp,... Mỗi ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, còn phải tu hành.

Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hai loại trọng điểm, đó là niệm Phật và tham thiền. Vì thế mà có thiền đường, niệm Phật đường. Tám tiếng học thuật, tám tiếng tham thiền hay niệm Phật, còn lại tám tiếng để nghỉ ngơi sinh hoạt. Đạo tràng huân tu, con người không vọng tưởng, thậm chí không có thời gian để vọng tưởng, không có thời gian sinh phiền não. Hiệu quả nổi bật. Sau ba tháng ở đạo tràng, khí chất con người thay đổi.

Hiện nay, đạo tràng tự viện không còn, giải môn không có, rất ít giảng kinh, công phu. Người ta chú trọng xây Phật thất, tu sửa thiền thất, lấy việc siêu độ người chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây độ người sống, bây giờ Phật giáo độ người chết. Trước đây là giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo. Vì vậy chúng ta cần sáng suốt hiểu rõ để tiếp nhận giáo dục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cải thiện cuộc sống, nâng cao cảnh giới của chính mình trong tương lai. Đó mới là bước đột phá. Mười pháp giới chính là mười thời, không khác nhau. Đức Phật dạy chúng ta đột phá sáu cõi, mười pháp giới mới có thể chứng được nhất chân pháp giới.

Siêu độ quy mô lớn có hiệu quả hay không?

Không thể nói không hiệu quả, quan trọng là ở người chủ pháp hay người chủ trì siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng, sức mạnh được khẳng định. Giống như Lương Võ Đế ngày xưa rất yêu quí một phi tử đã tạo tác nghiệp tội, bị đọa vào ác đạo. Trong văn tự Lương Hoàng Sám ghi chép rất rõ, Lương Võ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời Bảo Trí công đến chủ trì pháp hội siêu độ. Bảo Trí công chính là hoá thân của Quan Thế Âm Bồ tát, ngài đem phi tử của Lương Võ Đế từ ác đạo siêu độ đến trời Đao Lợi. Vì vậy, người chủ pháp đàn cần có tu, có chứng. Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng dường như không còn. Cả đời chúng tôi không dám làm Phật sự siêu độ vì biết mình chưa đủ năng lực, chưa đủ đức năng.

Chúng ta hiện nay thường giảng kinh niệm Phật, mặc dù chưa đạt tiêu chuẩn như thời xưa, tám giờ giảng kinh, tám giờ niệm Phật nhưng chúng ta thực tập không gián đoạn, cũng thành tựu chút ít. Mỗi năm đến kỳ thanh minh, trung nguyên, đông chí, chúng tôi tổ chức pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Bài vị mà chúng tôi cúng là bài vị tổ tiên trăm họ, một mực bình đẳng. Không phân biệt bài vị lớn, bài vị nhỏ bao nhiêu tiền.

Phật tử tùy hỷ cúng, hoàn toàn không miễn cưỡng. Pháp hội không thu phí cúng dường. Trước đây mỗi năm ba lần pháp hội. Nhưng gần đây, xã hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi tháng chúng tôi làm tam thời hộ niệm một lần, thành tâm thành ý siêu độ cho tất cả oan hồn chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự phụ thêm của đạo tràng. Hy vọng hàng xuất gia cũng như tại gia hiểu được lý luận và sự thật của việc siêu độ này để thực hiện tốt, chỉ cần tận tâm tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng.

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2025

KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO

 KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Dịch Giả: THÍCH TRÍ THỦ

MỤC LỤC

LỜI BÀN TRƯỚC KINH
I. Thật nghĩa của khế-lý
Thập-thiện nghiệp là mục-tiêu làm lành của thế-gian và xuất-thế gian
Thập-thiện là chánh-nhơn tạo thành nhơn-gian và thiên-quốc
Thập-thiện nghiệp là căn-bản của Bồ-Đề Niết-bàn
II. Ứng-dụng của khế-cơ
Đối-trị bệnh rong-ruổi theo bề ngoài mà bỏ quên nơi mình, để trở lại tu nơi mình
Đối-trị bệnh nói suông, chuyên trọng thật-hành
Đối-trị với hạng người hy-vọng cao xa mà phước-đức bạc-bẽo để tô-bồi nền phước-đức 

A. GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
B. KINH VĂN
ĐOẠN I: Chứng tín thuộc về tự thân
ĐOẠN II: Chánh thuyết thuộc về phần chánh tông

CHƯƠNG I: Nghiệp quả thế-gian và xuất-thế-gian
Từ nơi nhân mà nói đến quả
Từ nơi quả mà nói rõ nhân
Nói rõ về tướng của nhân
Quán tâm là vô-sanh
Quán pháp là như-huyễn
Khuyên nên tu-học
Đem tướng của nghiệp quả làm chứng
Dùng Phật quả làm chứng
2 KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Dùng Bồ-Tát làm chứng
Đem hàng Thiên-Long làm chứng
Đem các loài ở biển làm chứng
Kết khuyên tu-học

CHƯƠNG II: Thập-thiện nghiệp-đạo
Công-dụng của thiện-pháp
Giải thích tên của thiện-pháp
Tướng của 10 điều thiện

CHƯƠNG III: Công-đức của mười nghiệp lành
Công-đức xa lìa sát-sanh
Công-đức xa lìa trộm cắp
Công-đức xa lìa tà-hạnh
Công-đức xa lìa nghiệp vọng-ngữ
Công-đức xa lìa nghiệp hai lưỡi
Công-đức xa lìa nghiệp ác-khNu
Công-đức xa lìa ỷ-ngữ
Công-đức xa lìa tham-dục
Công-đức xa lìa sân-nhuế
Công-đức xa lìa tà-kiến

CHƯƠNG IV: Thắng-hạnh của mười nghiệp lành
Lục-độ:
Rộng nói về bố-thí-độ
Lược nói về năm độ
Các hạnh khác:
Bốn vô lượng tâm
Bốn nhiếp-pháp
37 phẩm trợ đạo Bồ-đề
Nói rộng thêm

CHƯƠNG V: Kết luận thù-thắng của Thập-thiện-nghiệp
ĐOẠN III: Phần Lưu-thông

LỜI BÀN TRƯỚC KINH
Lời bàn nầy của Thái-Hư Đại-Sư giảng tại Hội Phật-Giáo Chánh-Tín ở Hán-Kh u (Trung-Hoa).
Hôm nay giảng về kinh THẬP-THIỆN NGHIỆP-ĐẠO, trước khi giảng chánh văn, xin bàn qua mấy lời ở đầu kinh.
Chữ KINH của Phật-giáo, nói cho đủ là KHẾ KINH, nghĩa là Khế-lý và Khế-cơ. Chữ KHẾ nghĩa là hợp. Tất cả giáo-điển của Phật đều kiến lập trên nguyên-tắc ấy. "KHẾ-LÝ" là hợp với lý Chơn-thật của tất cả muôn sự muôn vật, là tánh tướng chơn-thật của muôn sự muôn vật, do trí huệ tuyệt đối của Phật tự mình chứng được rồi đem chỗ thân chứng ấy khai thị cho mọi loài sanh linh đều được chứng nhập. Ấy là Phật y theo nguyên-tắc khế-lý mà thuyết pháp vậy. KHẾ CƠ là hợp với cơ duyên của từng chủng loại, từng căn tánh, từng thời tiết nhơn-duyên. Đức Phật tìm phương tiện thích hợp với tất cả mọi loài mà thuyết pháp, chúng sanh đều được giác ngộ. Đủ hai nghĩa KHẾ LÝ và KHẾ CƠ ấy gọi là KHẾ KINH.

Nay căn cứ vào hai nghĩa trên mà nói nghĩa đại khái của Kinh nầy:

I THẬT NGHĨA CỦA KHẾ LÝ.

– Là nghĩa chân thật hợp với lý chân-thật của muôn sự muôn vật, về tánh về tướng vậy.
Thật nghĩa hợp với chơn lý nầy không vì thời-gian mà biến đổi. Không vì không gian mà sai khác, không luận thời đại nào, địa phương nào, chủng loại nào, đều như thế cả. Nơi đây, xin chia làm ba đoạn để nói về nghĩa chơn thật hợp lý của Kinh Thập-Thiện Nghiệp-Đạo nầy.

1. Thập-thiện-nghiệp là mục tiêu làm lành của thế gian và xuất thế gian. 

"Nghiệp" là hành vi: "Thập thiện nghiệp" là 10 hành vi lành.

Về thân có 3: không sát-sanh, không trộm cắp, không tà hạnh.

Về ngữ nghiệp có 4: không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác khNu, không nói thêu dệt.

Về ý nghiệp có 3: không tham lam, không sân hận, không ngu si tà kiến.

Hợp cả thân, ngữ, ý thành 10 nghiệp lành, trái lại tức là 10 nghiệp ác.
Thiện và ác không nhất định, cần phải xem tánh chất của nó mà định nghĩa; nếu trong tâm thiện, thì phát hiện ra nơi hành-vi lợi lạc cho chúng sanh tức là thiện nghiệp. Tâm ác, thì hiện ra nơi hành-vi làm tổn hại chúng sanh tức là ác nghiệp. Hơn nữa, muốn biết thiện hay ác của 10nghiệp về thân, khNu, ý, ta hãy xem sự kết quả về tương-lai tốt hay xấu mà quyết định. Mười nghiệp lành nầy không những nơi hành-vi lành của thế-gian, mà trong kinh điển Phật đều nói đến. Mười nghiệp lành nầy là cơ bản hành-vi lành cả xuất thế-gian nữa vậy. Ở thế gian thì do những hành vi lành nầy mà đi đến kết quả tốt đẹp về Nhơn về "Thiện Thiên". Kết quả là "Trời" tức chỉ cho các chúng sanh ở thế giới tốt đẹp hơn loài người; đó là của những người tu theo 10 thiện nghiệp, vì tất cả quả báo của loài người và trời thành tựu được, đều do tu theo 10 điều lành này. Thông thường người ta cho những hành vi đạo đức của loài người là theo 5 giới trong Phật-pháp của hàng tại gia thực hành. Nếu muốn sanh về các cõi trời thì cần phải có hành vi đạo đức của Thập thiện. Trời lại có 3 cõi: Cõi dục, cõi sắc, và cõi vô sắc; muốn sanh vào hai cõi sắc và vô sắc, lại cần tu theo tứ-thiền bát định nữa mới được; nhưng cũng căn cứ vào 10 nghiệp lành nầy làm căn bản; chỉ thêm vào một tầng nữa là cần phải có công phu tu các pháp thiền-định nữa mà thôi. Cho đến các hàng Thanh-văn, Duyên-giác và Bồ-tát, phát Bồ đề tâm, thoát ly ra ngoài tam giới, lợi lạc hữu tình, cũng không thể nào bỏ 10 nghiệp lành nầy mà thành tựu được; vì thế, Giáo-pháp Đại-thừa cũng đều thâu nhiếp vào trong 10 điều lành nầy. Nhờ có "giới" mới sanh thiền-định, nhờ thiền-định mới phát trí huệ; cho nên ở trong Thập địa Bồ Tát, Ly cấu địa về thứ hai, chính là nhờ Thập-thiện-nghiệp mà thành tựu. Căn cứ vào Thập thiện-nghiệp nầy mà tinh tấn tu giới định, đoạn trừ cùng tột đến chỗ nhỏ nhiệm của 10 nghiệp ác về thân, khNu, ý; nhờ có định lực tăng cường, lòng không tán loạn, mới hoàn toàn thành tựu 10 hạnh lành. Đi sâu vào một tầng công phu nữa, cho đến khi nhờ sức thiền-định mà phát sanh trí huệ, cuối cùng đoạn trừ hết căn bản vô-minh, đánh tan tà kiến, hoàn toàn thân-chứng quả Vô-lậu Chánh-giác, đến đây mới là cứu cánh của Thập-thiện-nghiệp-đạo. Vì thế, sự nghiệp xuất thế của tam thừa thánh nhơn hầu hết đều bao quát trong thập-thiện-nghiệp. Chỗ chơn thật công năng của Thập-thiện nghiệp quyết định là như thế.

2. Thập-thiện là chánh nhơn tạo thành nhơn-gian và thiên quốc

Thập thiện không những là chánh nhân tạo thành nhân gian và thiên quốc, mà con đường thiết thực đi đến cảnh an lạc giữa thế gian cũng là thập thiện. Nếu muốn đạt đến mục đích an lạc trong nhơn gian, chính phải làm theo những hành vi không sát hại, không trộm cắp v.v... của thập thiện; nếu ai thực hành theo 10 thiện nghiệp thì không có việc gì là không thành tựu. Hiện tại sự thảm khốc tương tàn tương sát của nhân loại, chính là do kết quả của hành vi 10 nghiệp ác; giả sử tất cả đều làm theo 10 nghiệp thiện thì thế giới an lạc sẽ phát hiện ngay. Từ cá nhân cho đến đoàn thể, xã hội, thế giới, tạo thành một bể khổ mênh mông, chẳng biết đến đâu là bờ bến, đó đều là kết quả của sự không tu Thập thiện. Trên hoàn cầu, đại phàm có chút tư tưởng, từ các nhà tôn giáo cho đến các nhà học vấn, ai cũng nuôi hy vọng tạo thành một thế giới
an vui tương thân tương ái; nếu thật hành theo 10 nghiệp thiện thì những lý tưởng Thiên đường cho đến Cực lạc đều phát hiện rất dễ dàng vậy. Thuyết Đại đồng của Trung quốc, và lý tưởng Hoàng kim thế giới của người Tây phương đều thực hiện không khó, cốt yếu là đổi mười hành vi ác trở thành 10 hành vi thiện. Hơn nữa, cũng có thể đổi cõi đời ác trược nầy, trở nên cõi thanh tịnh an vui. Nhân loại ngày nay chính cần phải tinh tấn một cách bao quát cùng khắp. Ngài Lô Sơn Huệ Viễn bảo rằng, thực hành theo 10 thiện nghiệp nầy, từ cá nhân cho đến một gia đình, một làng, rộng ra đến toàn quốc, thì phong tục được thuần mỹ, hình phạt được trừ bỏ, chính trị an ninh, trở thành một quốc gia thái bình thịnh vượng vv... Như thế thì luật chính là 10 thiện nghiệp. Không luận thời gian nào nếu muốn hưởng cảnh yên vui cần phải đi vào con đường ngay thẳng ấy. Phật dạy: "Trong bốn châu thiên hạ, Bắc Câu Lô Châu là tự tại an vui hơn cả, chính là kết quả của 10 Thiện nghiệp vậy". Lại nói: Vua Chuyển-luân Thánh vương ra đời thì bốn bể
thái-bình, thiên hạ an lạc, nhơn gian đều tu 10 Thiện-nghiệp..." thế cũng đủ chứng cho lý nầy vậy.

3. Thập-thiện-nghiệp là căn bản của Bồ-Đề Niết-Bàn

Hai quả chuyển y Bồ-Đề Niết-bàn của Tam-thừa Thánh-Nhân đều lấy 10 Thiện nghiệp làm căn-bản. Vì 10 Thiện nghiệp là công năng ngăn đón các hành vi độc ác, triệt để đối trị tất cả hành vi bất thiện, tức là giải thoát sinh tử, chứng quả Niết Bàn. Đoạn trừ hết mầm mống của 10 ác nghiệp, thì công đức của 10 Thiện nghiệp mới phát triển đến viên mãn. Lại đem công năng ấy lợi lạc cho tất cả thế giới chúng sanh tức là viên mãn quả Đại-Bồ-Đề. Đây cũng là một định luật. Lẽ dĩ nhiên, không thể bỏ 10 Thiện nghiệp, hoặc chưa viên mãn 10 Thiện nghiệp, mà có thể chứng Tam thừa Thánh nhân được. Đã nói lược qua phần KHẾ LÝ dưới đây nói phần KHẾ CƠ.

II. ỨNG DỤNG CỦA KHẾ CƠ

Đức Phật thuyết pháp, bao giờ cũng thích hợp với căn cơ chúng sanh. Nay giảng giải Kinh Thập thiện nghiệp đạo nầy cũng chính là đem phương pháp ứng theo thời cơ mà đối trị. Hầu mong cứu vãn sự khổ não thảm khốc của thế giới chúng sanh, vì rằng muốn đổi sự thống khổ đau thương trở thành an vui hạnh phúc, ngoài Thập thiện ra, không thể tìm phương pháp gì hơn cả. 
Đây cũng chia làm ba đoạn mà giảng.

1. Đối trị bệnh rong ruổi theo bề ngoài mà bỏ quên nơi mình, để trở lại tu nơi mình

Hiện tại thế giới đều ở trong bầu không khí ác liệt, thiên tai nhơn họa, nhơn loại đang quay cuồng trong vòng thống khổ, chưa biết đến đâu là bờ bến. Phương pháp cứu vãn không gì hơn là thiết thực tu hành theo 10 Thiện-nghiệp. Ta không nên oán trời, trách người và cũng không nên rong ruổi kêu cầu đâu xa lạ. Trách nhiệm chính ở nơi ta. Ta cũng không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh, hoặc cho người nào, hoặc oán trách chế-độ xã hội bất lương, hoặc bắt tội điều kiện vật chất không đầy đủ; không biết tự trách mình, cứ mong cầu ở bề ngoài; nếu ở thế giới, mọi người đều có tư-tưởng ấy chắc rằng không ai là người ra chịu trách nhiệm. Nhưng dù có người chịu trách nhiệm đi nữa, mà ta không chịu đảm nhận tự lập ở nơi ta, nếu người nào mắc phải bệnh nầy, thật không có thuốc gì chữa được. Lại còn có những hạng người không mong cầu ở nơi người, không cầu ở nơi vật, mà chỉ cầu với Thượng-đế hay Quỷ thần cho đến tin Phật mà không
ngoài mục đích cầu khNn ấy, rốt cuộc chỉ là bắt bòng bóng giữa hư không mà thôi. Chơn ý-nghĩa của Phật
pháp là dạy cho người ta hiểu biết chơn-lý nhân-quả, để trở lại cầu chính ở nơi mình. Như hồi Phật tại thế em Phật là A-Nan, tưởng ỷ lại vào Phật là được thành Phật, có nói rằng: "Thế nào Phật cũng ban cho phép Tam-muội" (Huệ ngã tam muội). Không chịu tự mình tu tập, rốt cuộc không khỏi mắc nạn với nàng Ma-đăng-già. Trong hàng đệ tử Phật Ngài An-Nan là đa-văn đệ nhứt, mà hoàn toàn không ỷ lại được nơi Phật. Vậy nên biết, Phật pháp hướng trách nhiệm về tự thân cả. 

Nếu xả bỏ mình, cầu cứu với trời đất quỷ thần, mà muốn cải tạo thế-giới xã-hội, thì quyết định không thể nào được. Cần phải trước hết đem 10 ác-nghiệp ở trong tự tâm, đổi thành hành vi thiện, rồi sau cầu Phật mới có hiệu quả. Xưa Khổng-tử bị bịnh, Tử-lộ xin cầu đảo, Khổng-tử bảo: "Khưu nầy đảo đã lâu rồi vậy" Chính Nho học cũng thừa nhận sự ngoại cầu là vô dụng; phương pháp cốt yếu chỉ là tự mình phát-tâm chân chánh thực-hành, rồi lần lượt khuyên mọi người làm theo 10 Thiện-nghiệp mới mong vãn hồi được nhơn-tâm thế-đạo.

2. Đối trị bịnh nói suông, chuyên trọng thực hành 

Hiện tại người ta cao-đàm hoạt-luận thuyết nầy thuyết nọ. Nào là nhân quyền, nhân đạo, việt thánh siêu phàm v.v... nhưng xét hành vi thực tế, không những không đem lại cho nhân quần một tia sáng gì gọi là siêu-hiền việt thánh, trái lại, càng nói lại càng làm cho nhân loại thống khổ thêm. Thậm chí con người không có giá trị là con người nữa. Bịnh nói suông cao-đàm hoạt-luận nầy, đã thành một bịnh thông thường cùng khắp đây đó ở dưới vòm trời. Cũng vì thế, xã hội chẳng có gì đáng gọi là đẹp đẽ: càng hô hào, càng vang dội, sự thực hành lại càng vô lực, mà sự nguy hiểm lại càng gấp bội hơn lên. Ông Mạnh-Tử bàn về việc ông Y-Doãn giam ông Thái-Giáp, nói rằng: "Có chí như Y-Doãn thì được, không chí như Y-Doãn thời soán-nghịch vậy" ở đây nên thêm vào một câu: "có tài năng như Y-Doãn thời được, không có tài năng như Y-Doãn thời nguy vậy"

Bởi thế chỉ có lớn lời khoe khoang không nhắm đích thực hành mà bảo rằng trị đời thì càng trị lại càng loạn thêm. Ví như trên đầu đội tảng đá nghìn cân mà múa nhảy, kết quả không nguy hiểm đến tánh mạng là ít lắm. Không những trị đời như thế, mà người học Phật cũng vậy. Như hạng người cuồng vọng đầu miệng khoe khoang cao đại, không kiêng kỵ gì, tự bảo mình là Phật rồi không sợ hãi gì nữa, tha hồ đàm-huyền, thuyết-diệu, mà cử chỉ thì không hiệp đạo một chút nào. Muốn dẹp trừ bịnh điên cuồng ấy, cần phải thực hành 10 Thiện-nghiệp; trái lại, dù cho tự xưng là đại-kỹ-thuật, đại-học vấn cũng chẳng qua ma-lực làm trợ duyên dắt dẫn, làm sa rớt vào tam-đồ ác-đạo mà thôi, không thể nào thành được hạnh Bồ-tát, chân chánh Phật tử.

3. Đối trị với hạng người hy vọng cao xa mà Phước đức bạc bẽo để tô bồi nền phước đức

Hiện tại người đời, lòng đã muốn so sánh với trời cao, mà phước mạng khác nào như giấy mỏng; không chịu tự tu phước đức, khi nào cũng muốn dằn ép người ta để nâng cao giá trị của mình. Nếu không biết thay đổi cõi lòng, vâng theo pháp Thập thiện để trau dồi đức hạnh thì hy vọng cao xa chừng nào lại càng hạ thấp mình xuống chừng ấy, không biết nương dựa vào đâu để cứu vớt. Lòng hy vọng cao xa không phải xấu, nhưng cốt yếu là cần phải tô bồi đức hạnh cho xứng mà thôi. Vô-lượng công đức Phật quả, oai thần tự tại của hàng thiên long v.v... đều là do phước đức tu Thập thiện mà thành tựu cả. Nếu chỉ có hy vọng cao xa mà không tu Thiện nghiệp, vun trồng cội đức, thì trọn ngày chỉ ra vào trong vòng phiền não, quyết không thể nào có kết quả mà còn đào thêm hầm thống khổ nữa. Ai là kẻ muốn cứu đời giúp người, càng nên lấy phước đức làm căn bản. Xưa có một vị Pháp sư giảng kính rất giỏi, mà rất ít người nghe, sau
gặp một vị Thánh tăng bảo rằng: "Nhà ngươi chỉ thiếu phước đức, từ nay nên siêng tu đức hạnh, làm nhiều việc lợi ích cho người". Pháp sư y theo lời dạy mà làm, về sau, quả như lời Thánh tăng dạy thuyết pháp rất được nhiều người nghe theo. Vì thế, thiết tưởng ở đời muốn lập đại công, kiến đại nghiệp, quyết phải tô bồi phước đức, tu tập theo pháp Thập thiện, để làm kim chỉ nam, lợi mình và lợi người, mới hoàn toàn thỏa mãn ý muốn.

GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Phật thuyết Kinh Thập-Thiện Nghiệp-Đạo

Đời nhà Đường, Ngài Thiệt-Xoa Nan-Đà nước Vu-Điền dịch văn Phạn ra văn Trung-Hoa
Đại khái giáo-điển đạo Phật chia làm ba tạng Kinh, Luật, Luận. Đây thuộc về Kinh-tạng.

Như trên đã nói, KINH là Khế Kinh, nghĩa là những lời giáo huấn đúng chơn-lý, hợp lẽ phải, thuận căn-cơ, một khuôn khổ bất di bất dịch. Kinh nầy do Phật dạy nên gọi là PHẬT THUYẾT. Phật đây chính là ứng thân PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI giáng sanh ở cõi Trung Ấn-độ, đầy đủ vô lượng phước-đức trí-tuệ, cứu-cánh viên-mãn đồng như hư không, khắp cả Pháp-giới ai cũng tôn kính. THÍCH-CA là họ của ngài, Tàu dịch là Năng-Nhơn, MÂU-NI là tên của Ngài, Tàu dịch là Tịch-Mặc. Y theo bản nguyện, thuận theo căn cơ chúng sanh mà khai thị tiếp dẫn, Ngài mới nói kinh THẬP-THIỆN NGHIỆP ĐẠO nầy. Mười điều thiện sẽ giảng rõ ở sau. Chữ NGHIỆP tức là hành vi, là những hành-vi về đạo-đức-học, về luân lý-học; theo Phật-pháp, có thể gọi là thiện-hạnh-học. Muốn định nghĩa chữ THIỆN-NGHIỆP cần phải căn cứ vào những hành vi đối với không gian, có lợi cả mình lẫn người, và đối với thời gian hiện tại, vị lai đều có ích. Nếu trái lại biết lợi mình, không biết nghĩ đến kẻ khác, hoặc là tham lợi chỉ trước mắt, không nghĩ đến thiệt hại về sau, đều thuộc về ác-nghiệp cả. Lấy mục đích lợi tha thiện nghiệp làm lợi ích chung cả đại chúng, kết quả cả mình và người đều lợi; lấy mục đích hại tha ác nghiệp làm tổn hại cho đại chúng, kết quả mình và người đều hại. Nội dung của THIỆN ÁC đại khái như thế. ĐẠO tức là con đường đi, THẬP-THIỆN NGHIỆP-ĐẠO tức là con đường quang-minh chính đại, đi đến cảnh giới an vui, không tối tăm hiểm trở như con đường thập ác. Đi trên con đường Thập-thiện-nghiệp, chắc chắn sẽ đến quả an vui của cõi trời, cõi người, hơn nữa có thể đạt đến Tam-Thừa Thánh-quả. Cho nên gọi là "THẬP-THIỆN
NGHIỆP-ĐẠO"

KINH VĂN

Phần chữ lớn và đậm là phần Kinh, ngoài ra là các tiết mục phụ thêm để giúp dễ hiểu ý kinh mà thôi.

ĐOẠN I
THUỘC VỀ TỰ PHẦN

Tôi nghe như vầy, một thời Phật ở tại Long-cung Sa-kiệt-La, cùng tám ngàn chúng Đại-Tỷ-kheo, ba vạn hai ngàn các vị Bồ-tát Ma-ha-tát đông đủ.

ĐOẠN II
PHẦN CHÁNH-TÔNG

CHƯƠNG I
NGHIỆP-QUẢ THẾ-GIAN VÀ XUẤT-THẾ GIAN
chia làm 5 đoạn

TỪ NƠI NHƠN MÀ NÓI ĐẾN QUẢ

Bấy giờ Đức Thế-Tôn bảo Long-vương rằng: "Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do vậy có sự xoay vần trong các thú.

TỪ NƠI "QUẢ" MÀ NÓI RÕ "NHƠN" 

"Nầy Long-vương! Nhà ngươi có thấy ở trong hội nầy và các loài ở trong đại-hải hình-sắc, chủng-loại mỗi mỗi không đồng nhau không? Tất cả đều do tâm tạo thiện hay ác của thân-nghiệp, khNu-nghiệp và ý-nghiệp mà gây nên cả".

NÓI RÕ VỀ TƯỚNG CỦA NHÂN

A. Quán tâm vô sanh 
"Tâm ấy không có hình sắc, không thể thấy được, chỉ là do các Pháp nhóm họp như huyễn không thật, rốt-ráo không có chủ-tể, không có ngã và ngã-sở".
 
B. Quán pháp như huyễn 
Tuy đều theo nghiệp, hiện ra không đồng; mà thật trong ấy, không có người tác-giả, nên tất cả các pháp, tự tánh như huyễn, đều là bất khả tư nghị.
 
C. Khuyên nên tu học. 
Kẻ trí-giả biết thế rồi, nên tu thiện-nghiệp; nhờ vậy sanh ra uẩn, xứ, giới v.v... đều được đoan chánh, trông thấy không nhàm chán.

4. ĐEM TƯỚNG CỦA NGHIỆP-QUẢ LÀM CHỨNG

A. Dùng Phật quả làm chứng.
"Nầy Long-vương! Ngươi xem thân của Phật do trăm ngàn ức phước-đức mà sanh ra, các tướng trang-nghiêm, quang-minh chói rạng, phủ tất cả đại-chúng, dù vô-lượng ức các vị Tự-tại Phạm -Vương đều không thể hiển-hiện được. Những ai chiêm-ngưỡng thân của Như Lai, không ai là chẳng chóa mắt.
 
B. Dùng Bồ-Tát làm chứng.
"Ngươi lại xem đây, các vị Đại-Bồ-Tát diệu sắc trang nghiêm, tất cả đều do tu tập phước-đức thiện nghiệp mà sinh ra.
 
C. Đem hàng Thiên Long làm chứng "Lại nữa, các hàng Thiên-Long Bát-Bộ thấy có oai thế lớn lao, cũng nhơn phước-đức của thiện nghiệp mà sanh".
 
D. Đem các loài ở biển làm chứng
"Này đây, các chúng-sinh ở trong đại-hải, hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ đều do hết thảy tưởng niệm của tự tâm gây ra bởi thân, ngữ, ý các nghiệp bất thiện, vậy nên tùy theo chỗ gây nghiệp mà tự thọ báo".
 
Đ. Kết khuyên tu học
Ngươi nay thường nên tu-học như vậy, cũng khiến chúng sanh rõ thấu nhân quả tu-tập thiện-nghiệp. Ngươi nên ở đây, chánh kiến bất động, chớ đọa trong tà kiến đoạn thường, đối với các phước-điền, hoan hỷ kính nhường. Vậy nên các ngươi cũng được nhơn thiên tôn kính cúng
dường.

CHƯƠNG II
THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO

1. CÔNG DỤNG CỦA THIỆN PHÁP

"Long-vương nên biết, Bồ-tát có một phép, dứt tất cả các khổ của đường dữ, pháp ấy là gì? Nghĩa là ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ quán sát pháp lành, làm cho các pháp lành, mỗi niệm mỗi tăng trưởng; không cho một hào ly bất thiện xen lẫn vào; tức là hay khiến cho các pháp hằng dứt, thiện-pháp viên-mãn, thường được thân cận các đức Phật, Bồ-tát và các thánh-chúng.

2. GIẢI THÍCH TÊN CỦA THIỆN-PHÁP

"Thiện-pháp là gì? nghĩa là thân của nhơn thiên, đạo Bồ-Đề của Thanh-văn, đạo Bồ-Đề của Độc-giác và Vô-thượng Bồ-Đề đều y-pháp ấy làm căn-bản và thành tựu. Cho nên gọi là thiện-pháp".

3. TƯỚNG CỦA MƯỜI ĐIỀU THIỆN

Thiện-pháp đây tức là mười nghiệp đạo thiện. Những gì là mười? Nghĩa là xa lìa sát-sanh, trộm cắp, tà-hạnh, vọng-ngôn, lưỡng thiệt, ác khNu, ỷ-ngữ, tham-dục, sân-nhuế và tà-kiến.

CHƯƠNG III
CÔNG ĐỨC CỦA MƯỜI NGHIỆP LÀNH

1. CÔNG ĐỨC XA LÌA SỰ SÁT SANH

Long-vương! nếu xa lìa sát-sanh thời được thành tựu mười pháp không còn bức não. Những gì là mười?

Đối với các chúng sanh cùng khắp bố-thí đức vô-úy;
Thường khởi lòng đại từ đối với chúng sanh.
Dứt sạch tất cả các tập khí (thói quen) giận hờn;
Thân thường không bệnh.
Sống mạnh lâu dài.
Thường được phi-nhơn (quỷ thần) ủng hộ,
Thường không ác mộng, thức ngủ an vui.
Diệt trừ oan kiếp, oán thù tự giải.
Không sợ sa đường dữ.
Khi chết sanh lên trời.
Ấy là mười công đức.
Nếu hồi-hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau khi thành Phật, được quả Phật thì tùy tâm tự tại sống lâu.

2. CÔNG ĐỨC XA LÌA TRỘM CẮP

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa trộm cắp thời được mười pháp bảo tín. Mười pháp ấy là gì?
Giàu có của cải; vua, giặc, nước, lửa và con hư… không phá diệt;
Nhiều người thương mến;
Người không dối gạt;
Mười phương khen ngợi;
Không lo tổn hại;
Tiếng tốt đồn khắp;
Ở giữa đại chúng không sợ hãi;
Của cải, tánh mạng, hình sắc, sức lực, an vui, biện tài đầy đủ không thiếu;
Thường sẵn lòng bố thí;
Mạng chết sanh lên trời.
Nếu hồi hướng về đạo Vô-Thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, được chứng trí Thanh-tịnh Đại-Bồ-Đề.

3. CÔNG ĐỨC XA LÌA TÀ-HẠNH (TÀ-DÂM)

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa Tà-hạnh, thời được bốn pháp, kẻ trí ngợi khen. Những gì là bốn?
Pháp căn điều thuận;
Xa lìa rộn ràng;
Được đời khen ngợi;
Vợ không ai xâm phạm.
Ấy là bốn công đức về chánh-hạnh. Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, được trượng-phu Nn-mật-tàng tướng.

4. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP VỌNG-NGỮ

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa vọng-ngữ thời được tám pháp trời khen ngợi. Những gì là tám?
Miệng thường thanh-tịnh, thơm mùi hoa ưu-bát;
Được người tín phục;
Mở lời thành chứng, nhơn thiên kính mến;
Thường đem lời êm dịu, an ủi chúng sanh;
Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh;
Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỷ;
Mở lời tôn-trọng, nhơn thiên phụng hành;
Trí-huệ thù thắng không ai chế phục.
Ấy là tám món công đức về hạnh không vọng-ngữ. Nếu hồi hướng về đạo Vô-thượng Bồ-Đề, sau thành Phật được chơn-thật-ngữ của Như-Lai.

5. CÔNG-ĐỨC XA LÌA NGHIỆP HAI LƯỠI

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa nghiệp hai lưỡi, thời được năm pháp không thể phá hoại. Những gì là năm?
Được thân bất hoại, không ai hại được;
Được bà con bất hoại, không ai phá hại;
Được lòng tin bất hoại, thuận theo bổn nghiệp;
Được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố;
Được thiện-tri-thức bất hoại; không dối lừa nhau
Năm công đức này nếu hồi hướng về đạo Vô-thượng Chánh-đẳng, Chánh-giác, sau thành Phật, được quyến thuộc chơn-chánh, các tà ma ngoại đạo không thể phá hoại.

6. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP ÁC-KHẨU

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa ác-khNu thời được thành tựu tám món tịnh-nghiệp. Những gì là tám?
Lời nói không trái pháp độ;
Lời nói có lợi ích;
Lời nói quyết lý;
Lời nói đẹp đẽ;
Lời nói thừa lãnh được;
Lời nói được tin dùng;
Lời nói không thể chê;
Lời nói được ưa thích;
Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, đầy đủ phạm-âm-thanh tướng của Như-Lai.

7. CÔNG ĐỨC XA LÌA Ỷ-NGỮ (nói thêu dệt)

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa ỷ-ngữ, thì thành tựu ba món quyết-định. Những gì là ba?
Được người trí yêu mến;
Dùng trí như-thật đáp các người hỏi;
Ở nhơn thiên oai đức tối-thắng, không hư vọng.
Nếu hồi hướng Vô-thượng Chánh-đẳng, Chánh-giác, sau thành Phật, được Như-Lai thọ ký, chẳng có luống dối.

8. CÔNG ĐỨC XA LÌA THAM-DỤC

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa tham-dục thời được thành tựu năm món tự tại. Những gì là năm?
Ba nghiệp tự tại, các căn cụ túc;
Của cải tự-tại, oán-tặc, không cướp lại;
Phước đức tự tại, toại lòng yêu muốn, vật dụng đầy đủ;
Vương-vị tự tại, đồ vật quý lạ, đều được phụng hiến;
Những vật được, thù thắng xấp trăm lòng mong cầu; vì
ngày xưa không bỏn sẻn ganh ghét.
Nếu hồi hướng Vô-thượng Bồ-Đề sau thành Phật, tam-
giới đặc biệt tôn-trọng thảy đều kỉnh nhường.

9. CÔNG ĐỨC XA LÌA SÂN NHUẾ (sân hận)

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa sân-hận, thời được tám món tâm-pháp hỷ-duyệt. Những gì là tám?
Không có lòng tổn não;
Không còn sân hận;
Không có lòng gây kiện;
Lòng nhu-hòa, ngay thật;
Được từ tâm của bậc thánh giả;
Sẵn lòng làm lợi-ích an-lạc cho chúng sanh;
Thân tướng đẹp đẽ, chúng đều tôn-kính;
Do sự hòa-nhẫn; mau sanh về cõi phạm-thiên.
Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Bồ-Đề, sau thành Phật, được tâm vô ngại của Phật, người trông không chán.

10. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP TÀ-KIẾN

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa tà-kiến thời được thành-tựu mười pháp công đức. Những gì là mười?
Được ý vui chơn-thiện, bầu bạn chơn-thiện;
Thâm tín nhơn-quả; thà bỏ thân-mạng trọn chẳng làm ác.
Chỉ quy-y Phật, không quy y các thiên-thần;
Trực tâm chánh-kiến, xa hẳn tất cả ngờ vực cát hung;
Thường sanh nhân-thiên, không sa vào đường dữ;
Vô-lượng phước huệ, lần lữa thêm nhiều;
Xa hẳn đường tà, tu hành thánh-đạo;
Chẳng sanh khởi thân-kiến, bỏ các ác nghiệp;
Kiến giải vô ngại;
Chẳng bị các tai-nạn.
Ấy là mười điều; nếu đem hồi-hướng về quả Vô-thượng
Bồ-Đề, sau thành Phật, mau chóng ngộ được tất cả Phật-pháp, thành tựu thần-thông tự-tại.

CHƯƠNG IV
THẮNG HẠNH CỦA 10 NGHIỆP LÀNH

LỤC ĐỘ

A. Bố-thí độ

Bấy giờ, đức Thế-Tôn lại bảo Long-Vương rằng: Nếu có Bồ-tát y thiện-nghiệp ấy, trong khi tu đạo, lìa nghiệp giết hại mà hành bố-thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, trường-thọ không yểu, chẳng bị tất cả oán tặc làm hại. Lìa nghiệp chẳng cho mà lấy, thực hành bố-thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, không ai sánh kịp, đều hay nhóm họp kho báu Phật-pháp. Lìa lỗi tà-hạnh mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt; trong nhà trinh thuận, mẹ và vợ con, không ai đem lòng dục mà xâm phạm. Lìa lời nói dối mà làm bố-thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt, không khởi các hủy báng, thâu giữ Chánh pháp, như lời thệ nguyện, chỗ làm thỏa mãn. Lìa lời nói chia rẽ (hai lưỡi) mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, quyến thuộc hòa thuận đồng vui một chí, thường không trái
chống. Lìa lời nói thô dữ mà làm bố thí, thường giàu của báu không ai xâm chiếm, tất cả chúng hội, hoan hỷ quy-y, nói ra đều được tín thọ, không ai trái nghịch. Lìa lời nói vô nghĩa (ỷ ngữ) mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm chiếm, nói chẳng uổng lời, người đều kính chịu, hay dùng phương tiện, khéo dứt các ngờ vực. Lìa lòng tham cầu mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai xâm đoạt, có được vật gì đều đem ban cấp, tín giải kiên cố, đủ oai lực lớn. Bỏ lòng giận hờn mà làm bố-thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt. Mau tự thành tựu, tâm trí vô ngại, các căn tốt đẹp, người thấy kính ưa. Xa lìa lòng tà đạo mà làm bố thí, thường giàu của báu, không ai chiếm đoạt, thường sanh vào nhà kính tín Chánh-pháp, thấy Phật, nghe pháp, cúng dường Chúng Tăng, thường chẳng quên mất lòng Đại Bồ-Đề. Ấy là bậc đại-sĩ trong khi tu Bồ-Tát đạo, làm 10 nghiệp lành, dùng bố-thí trang nghiêm mà được lợi lớn.

B. Lược nói về 5 độ

Như vậy Long-vương; Tóm lại mà nói: từ 10 thiện đạo dùng trì giới trang nghiêm hay sanh tất cả nghĩa lợi của Phật-pháp, đầy đủ nguyện lớn. Dùng nhẫn-nhục trang nghiêm, được viên-âm của Phật, đủ các tướng tốt. Dùng tinh-tấn trang nghiêm hay phá ma oán, vào Pháp-tạng của Phật. Dùng thiền-định trang nghiêm hay sanh niệm huệ, tàm quý, khinh an. Dùng trí huệ, trang nghiêm hay dứt tất cả phân biệt vọng kiến.

2. CÁC HẠNH KHÁC

A. Tứ vô lượng tâm.

Lòng từ trang nghiêm, đối với chúng sanh; không khởi não hại. Lòng bi trang nghiêm, thương các chúng sanh, thường không chán bỏ. Lòng hỷ trang-nghiêm thấy người tu thiện, lòng không ganh ghét. Lòng xả trang nghiêm, đối cảnh thuận nghịch, lòng không thương giận.

B. Bốn nhiếp pháp

Bốn nhiếp pháp trang nghiêm thường siêng nhiếp hóa tất cả chúng sanh.

C. Ba mươi bảy phNm trợ đạo bồ-đề

Niệm xứ trang nghiêm khéo tu tập bốn quán niệm xứ. Chánh cần trang-nghiêm hay dứt trừ tất cả các pháp bất thiện, thành tất cả pháp thiện. Thần túc trang nghiêm thường khiến thân tâm nhẹ nhàng vui vẻ. Năm căn trang nghiêm, thâm tín kiên cố, siêng năng không biếng nhác, thường không mê vọng, vắng lặng điều hòa, dứt các phiền não. Năm lực trang nghiêm, các oán đều diệt, không gì phá hoại. Giác-chi trang nghiêm, thường khéo giác ngộ tất cả các pháp. Chánh-đạo trang nghiêm được trí huệ chánh, thường hiện ở trước. Chỉ trang nghiêm, dứt sạch tất cả kiết sử. Quán trang-nghiêm, như thật biết tự tánh các pháp. Phương tiện trang nghiêm, chóng được thành tựu, đầy vui vô biên.

3. NÓI RỘNG THÊM

Long-Vương nên biết, 10 nghiệp thiện nầy, hay làm cho thập lực, tứ vô úy, 18 pháp bất cọng, tất cả Phật pháp, đều được viên mãn; vậy nay các người phải siêng tu học.

CHƯƠNG V
KẾT LUẬN SỰ THÙ THẮNG CỦA 10 NGHIỆP LÀNH

Long-Vương! Ví như tất cả thành ấp, xóm, làng đều y đại-địa mà được an trú, tất cả trăm hoa, cây cỏ bụi rừng cũng nương đại địa ấy mà được sanh-trưởng; thập-thiện nghiệp-đạo cũng thế, tất cả nhơn thiên y vào đó mà an lập, tất cả Thanh-văn, Độc-giác Bồ-đề, các hạnh Bồ-Tát, tất cả Phật-pháp đều y vào đại địa thập-thiện nầy mà được thành tựu.

ĐOẠN III
LƯU THÔNG

Phật dạy kinh nầy rồi, Sa-Kiệt-La Long-Vương và toàn thể Đại-chúng, tất cả thế gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la thảy đều hoan hỷ tín, thọ, phụng hành.

 data:image/jpeg;base64,/9j/4AAQSkZJRgABAQAAAQABAAD/2wCEAAkGBwgHBgkIBwgKCgkLDRYPDQwMDRsUFRAWIB0iIiAdHx8kKDQsJCYxJx8fLT0tMTU3Ojo6Iys/RD84QzQ5OjcBCgoKDQwNGg8PGjclHyU3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3Nzc3N//AABEIAMAAzAMBEQACEQEDEQH/xAAbAAACAwEBAQAAAAAAAAAAAAAABQMEBgIBB//EAEMQAAIBAwIDBQUGAwcBCQEAAAECAwAEEQUhEjFBBhMiUWEUMnGBoSNCUpGSsRXB0Qc0U2Jy4fAzFyRDRGNzgtLxFv/EABsBAQACAwEBAAAAAAAAAAAAAAADBAECBQYH/8QAOhEAAQMCBAMECAUEAgMAAAAAAQACAwQRBRIhMSJBURNhcYEUMpGhscHR8AYzQlLhFSNicjTxQ5LS/9oADAMBAAIRAxEAPwD6rpfajS9Q0u2v0n7tZ4zIqSe8ADg5x5GguUV/+J2XerH7QhdhlVzz5cvXcfnWbFEQanZT7RXMZO/3vLnSxRTRXVvK5SKeN25lVYE1hFPREURFERREURFERRF4eVEWfv8AULmW7aK0lMaR7FgAcnrzFcHEsVdTPysXRhp4wwF4uSrOi6hNcSPBcYZ1GQ46iruHVhqWXduoqmBrAHN2KcV0VTRREURFERREURFERREURFERREURINH7K6dpmjWmmd336WqcIkkA4mJOST8Tj8qNJF0OqufwSwHCRbgFCChHNCMYx8MCs5isWXI0DThIHFsOLfJzzrOYpZTWWlWdjI0ttbqkhXh4hzxtt9BWCSVlXhyrCL2iIoiKIiiLzI86Ivc0S68PLbFYRZC6dfb7gRsIGDnjSY4+YPIg156tpIZ5Dc2PeunDKMgDle7OshvJuE964UccgHhX0BPOr+HQsiBa3VQ1MvaNFhotCCPOumqSMiiL2iIoiKIiiIoiKIiiIoiKIiiIoiKIiiIoiKIjNES+91aysn4LicBz90bkVmxU8dNLILtGitwXENxEJYJFkjPJlORWFE9jmHK4WKkJGOdFol+paxZacv8A3qcKx5IN2PyqaKnkl9UaKvPVxQ+sdfes9ddq7uYkafZLGvSS4PP/AOI/rUM9Th1KbTy3d0br71rH6fU/kRZR1dp7kul1DWLgsJdTkXP3YlCgfPnXNk/E1Kz8mnv/ALH/ALVtmBVj9Zai3+oVjTEMveLdTyTHI8cjFmHzNcqpxE1sna5A23IK4yiNGwR5y4HruoLs3EV2Ta3s8AAAIjbwk+oqekxptE10ZhD7ncmx+C0mwl9XllEpYeg2UkOta3btn2iK5X8MqAHHxGK6seP4ZJpJG5neNR8yqUmF4nDrHI1/cRY+5NbPtfAWCajbSWrNyceJD8/610ooY6gZqWQP+PsVN9W+B2WqjLO/l7VpLeeG4iEkEiSIeRU5FQlpabEK8xzXjM03CkyKwtlVvdQtbIBrmZUzyGdzWQLqWKGSX1BddWd7bXkXHbTK6jng8vjQiyxJE+I2eLKzWFGiiIoiKIiiIoiKIiiIoiKIiiLw8sjnRF8zvQRqF17RxCQu3XfntW7s1hlA779PqvURflNypt2cvpbK3d2H2UsyIAfnxEfAYqCqnEQb3lc7EGtc4DmL/wAKXV+0s08jWujnhQHD3RHLp4anqJ6bD2CSpN3HZvM+PcvMxmor5DFS6Dm47Dw6pJHAqM0jEvMdzI5ySfjXkq7G6qs4ScjOg0XoqHBqel47Zn9Tqf4XMskUUSu0hWXi8XGOEYzj18jtkZyCPKtWwMmZkjbmNtm6n2DX3Kg2eojqLyOtrrf1bfe2o7uii/its78Ft3k79VhjLEVYZ+HMQyZpQ2Mf5G31Vt+O0QOVhL/9Qpor+WPxS2dxAhACtKhXi+FYOGtptRM15PJpvZYbXGrJtGWgdVzJeyqWkezvDEdxKsJKn51kYMZ+Jk8eZ36S6x8Fg4vHAezdG+w52uF5BqVncNwxzLxfhbwn61XqcDxCl4pIjbq3X4fMKzBi9HOcrJBfodPipAyFEHeFpTtJGw5fT98DyJrDskTO0jNrbEHVc6nmnlqAyS5B3BGw+/4upLZ7rTpTLpsndnm0R3RvlXWofxHmAirxmH7huPHqtarAjGTLQHKf28j9FpbHtPDdWUxaMRXsS57hj7x5DHpmuzVNbDD28ZzM5FUqWo7Z/YyDK8bj73Wd1udrnU/aJwTHLGjJw/h4RkD4Nn51ox5dCHs3tz2v3r1dEAIAG7q72PD/AMUk7vPdCMiTJ257ZqV22qixLL2IvutyOVRrhooiKIiiIoiKIiiIoiKIiiIoiKIlWraZDeRlu5g74cnlU4x64IrV2fLwHVTRVEkPqusFnbKaK7c/axuIzwDgGFGPwjyrg4jHPDLlnPERceCzBUsqGmWM3F7eagvIFhlbuhhScmuPUNe52c3N7d5XVpXsyZLWt5JbHLc387QaXGJGXZ5m9xP6muvDhMFNGKjEXZQdmj1j9PvZc6oxV75DFRjMRuT6o+qbWfZe1UiXUWa9n/8AU9xT6LUc+PzBvZUTRCzu9Y+J+z3qk3Dw856hxe7v28gncUaQoscSKiLyVBwgflXDkcZHF7yS7qST8V0GtDRZuiR9pmtZZYIrkzs6AtwRYBGcb5PwrpYfDK67mW8T/CkY0nZX9BeA6ci2xYrGSuG2I3zg4/eqlZE9kpbIPosOvfVS3umWN+pF5axSZ6lfF8jzFbUtdU0hvA8tHTl7Nvcqs1LDMLPaCkV12furJTJpUxkQc7aY5/S1doYlR4jw18eV372/MffkoI2VNF/xjdv7Tt5HkqtpdrcFkIaKdPfjfZlrm4hhctDZ98zDs4bEd/RdmhxCGqFho4btO4/hNrCzjcGaUKXxgHG+K1gfKyEx5jlOtuShqjG6UPAGYaX5+Cktoxf3b2Ub2ziPxlJgfDnyxg/l513qCOrEXasPA48/f77+aqCtZFKYw6zwLrV2VnBZxBLeFIx14etdS6ikkfIbuN1ZHKi0RREURFERREURFERREURFERRF5miLLdsNTcFNKtX4ZZRxSsOap/vUwljpIHVcuzdh1KoVAkqZm0cW7tz0akMSiFFVNguOECvn9RUy1MrppDcu1XsIKeKniELBZo0+/moJr43cNwyIzwQngkkA8OT0zXb9GlpWRPlID3agc7Da65ImhnkfGwXaNO49QnOhXcEOnwxTRw2SgYj4nCiQeYGc1yq90k05e52Z3Pu7lsyFkTcsYsAnXPl5ZqgtkURItYsmnvi0E0aTcI4klOARyyD867OHV3o7MrhcKVj8qt6FAsFvIok7x+LxsB4c45DzxVOunM8mYjTktXuuUzqktFHJLHEvHM6Rxgbs5AA+ZrIF9ALpryWY7Qywz3dtPHCHwSEukYESeagj+dduhmlZA+nzcLt29O9ReixOkEpHEOf3uvIb0u8luOKOSM4ZWGDUWI080MbJP0PGhHw8VaopYJnvb+pu4PxUchkhmjvLU4ngPEu/veYNW8AxIU8vo0v5b9PA9fqq+N4e6ZgqIfzGa+I6LfaTqEeo6fDdRDAdd1/Ceor00sTonlh5LmU1Q2oiEjeau1Ep0URFERREURFERREURFERREURQXM620Es0hARFLEnpissaXOsFpI4MYXHkvnSSyXdzLdujPNcNxAdQvQfl/OuR+IZDPMKRhAbHv8A7JhL2UsJqpQS+U6D/EbKG6eSZobO0OLi4YqP8o6mqOE0TGySVNR6kWp7zyHnzV/EMQzwtZAeKTTwA3WrtdPtrXT1sUjBgCFSD97PMmuVWVktXO6d54j7ui0ggbBGGM2Cx3aGznXV7gyQySBz9jwqSOHoB8BV+nkjEastOi1Gh97bWdta3QIk7vO53G+w/KudMGlxc1alNM7ZGx9arXCwqeomJO7llXKjI3HpmporkWaVkKWyAFvGV5MMj51rISXLCnJx5bHrWiLMdq/aLuGGSNGeGOQh1X6GuhRlrHWJ1WzbArjsjZO4uHnhPs5ZSiuNi4OxA9KzWSDZp1+RR9la7U2LcC6pbL9vAPtMffj6iuhgtQ2YOw+c8D/V7ncj9/NcyqD4HCri9Zu/eOYVFJkaOOSLLB1yoAzXHfRSsldC4at0Piu+a2ERNlJ4XDRM+yV37NqktkzfZXILoD0ccx8x+1e6o5zWUAe712cLvkV5VzW09aWs9STib48wtuOVFdRREURFERREURFERREURFERRFnO29wYtIEC87mVY9j93mf2+tWqQtY50rtmAlc/EbujbC3d5AWaVCro0bsjqMA86+eCsfndI7XNcm69ZLQMkY1gNsu1l32Ug7+/vr87iNu4iOOWAC37128WkdT0MFKfWcO0d57Dy+S87SRsfUySN9VvCPLc+Z1WprzS6q5deNSoJGfwnFZaS03CKpNH7NEzYLjOS3Mj1qVpzlZSC97TXE/2WnoFPJpTvxf6a9Zh/wCHGW7Sqv3N2t4rmT1vEWxe1UJbPU7wK9xLI/Ud5Jj6V0xU4ZTnKwDyF1E2nqpNf4Xaz6xpXCUmkMY5BzxJWppcLr7ta0X7tCsO9Kg1cNE6sNfW+QR90Y5x76cxjzHpXmMRwaSidmvdm1+h71fpqls3Cd01FtxMHLNH6KcZ+NcfPpbdWrqyNupqNYXjIrKVYZUjBB6jrWQS0gjcLBGbQrFWcb6dqF3ZIQDbSERht/A2GH0r1OKzBzIa4N/NFnf7N0PtHwXNoKYzZqbNYxnTwdY/FdzSPaNBeRjLwSiTbbO+4/Ks/huqz1r4HaCRtvMbe65W+OUno9CyVmpjdfyO/wBF9NjZWjVkOVIBB8xXYtZZvfULqiIoiKIiiIoiKIiiIoi5kdY1LOQqjmSawTZZAvoFWXUbRw5SeNuAZbB5VqJGHYrcxPbuFle2FxHc3+miNw0YR5AVOQc4x+1KqUMwmd452HtP8qk1mfFKdjhtmPsCVzScEDPj3VJrw1PGJZmR9SB7TZetml7OJz+gJ9ibdlIe50G085EMhP8AqJP7EV0/xBL2uJy93CPIfW683hrMtKzv19qb/MVxVfQdsHpRFn+1940VtHZxEhrk4fB+4OY+fKvSfhuiEsxneNGbePXyCoV0hDQ3ql9nZtBZh4yFmYAhj0Hpsa6OKVjqiUwj1Rp4kfQrelon9jmj0efcPeopZ71BxNcNnkCCv/13rmOhdHGXaW6WPXxWlU3EKeLO6S425f8AyrvtTpbE7MeEZVuTmtpYuz4gSLe5dSoJjpy8i5A9qT3KvayW2o2vgYgSqAc8J6r9a9JRzMr6d8EuvI/I+6/ivPPDmZJWiwcAfC+4W7s51urWKeM+GRAwHl6V89qITBM6E/pK7Mb87A5S1Ct0fDkOdLIstr0Yg7R28ija4tihA81P+4Hyrvx/3cDkb+x4d/7b/NVoLsxNpH6mkezVQXYBt5FP4Tt8qo4PL2VfA8fuHvNvmuni0Xa0Ezf8SfZqFs9Bvov4HppkkVWaFIwGbdmAx/Kvb1hDJ3NvzXnKFxfTMd3BMBfWxl7oTx8flxVBnbe11d7N9r20VjNbLRe0RFERREURFERREj7TuwS3Q57pnPHjqQNh+9c3FHPbDwK9QgZnHmkzqsckJg9/iA+u4rzuHTTOksfBXrlzTmRDBbe0Sgqndh24T5b9KuzkZzG06X25HXRUALEOA4h7VS1OODupOHHCRufSoaYNZK1zPXG3W/gppHPdG5snq8/DxVfSbu/BWGMy9wluRbjgPA2F2wcb7VLVsY+Uvk9Yu4uup5jl7lFE2Jsbcnq6exQWlxJ7VA8MzvI8gB397J3BrpVMMApzoFacG5VooGCGZIJnYK+EAy3/AAV5twvbMFXWY157mTUkNyuCE+zyMHGTXtvw2IxSOLf3fILkYgP7ot0THUpXiVBHuCcD4dK4DHOadd76+N10qqpfTtZ2YBv9EquWlJUMNiSDnAxsfWrMxldAQ4C2nxVTEX1xgtNGA2+4t9VLH7Q0QUIWGB5bfWsymZzTcCymkOISQ5HMFiOo+ql1CMx6NAkgwyYBXryOf5VdwTN6S4D9vzH8qvUxllJEx+4sPdqmfZ+W5XT7RUVu54CeJUz1PWuLjbY/TpDz0+AVmi/IbdT3crhbiSORmmjiJQZ5eZx6VQgY3M0O2J1VsbpTps8q6hbiGWRmkccY485Xqfyrt18EDac6eCle1oGirNcT3F3C907uY+JYGYYLL1I8+QqvGMlNJHH6jrZrdRtfoqxZH2rXfrF7de9PrSCCSMiQDOOp51QDWNIMe41876KaSWQ6O2K8jREaVkUBo4zwY5qM7kfLNdGCVz8z73NlFCxrS1ttPcujFEIeLb5VxWT1BntZXw52ay1OlO8mnwPL75XfP0r20RcWDMuNOAJTbZXakUSKIiiIoiKIiiKK4t4rmJo50Do3MGtXNDhYrZj3MdmabFUo9Es4w3AHDEYDcW6/CoW0sbL5Qpn1MjxqVmO1NnDp17pq2ycEbpIpwTuQV5/nWaqmZ/SqgMbqMp79Dc/BUBM5uJwFx0OYe7+UuuF7yKROhUivE00oimjk5NIPvC9VURmSJ7OoPwTjsrN32g2hz7imNh6qcfyrp/iGLs8TlH7tfaAV5vDHZqVnUaewpktvAkjSpDEsjc2CDJ+dcgyPLcpcbLoLtEWNQsahFAwAuwArBJO6LP8Aa+0LwQ3sYP2GQ/8AoPX5H969L+GasRzOp3fr28R9fkufXREtDxySyJ3voLdY+HvIm8YY4yvmPOruJ0hgmMo9Um/gei0a51SyNjd2n3BS31uxQ92pJLfdHxqk+UyMy3XSxRrpaUhjbm4XEcssSrm1ZwDg42+fKsGZzyAQVAcSmaAOyOlgq2q3DXtxDa2xLEngQeZPM/SvQYfTihp3zTG2lz3Dp4qlWz+kShjPvqtrZW62lrFbJyiULkdT1rwFTOaid0pHrG66UTAxgaOSkeNHdHdFZ091mAJX4VFcgWW65itoIWZooI0ZveZVAJrZ0j3CxOiLN683e9oreNTtBbl2+LHH8q7kR7LBJHHeR4A8tfmfYq0De0xNv+LSfabKC6YR28rcsKcGqGFxmWuhZvxA+QN/kupiknZ0Mr/8T7SLLV6NpNu+l6bNKrCdYlcsDgnIyQfMb17SrgiNS5zRaxOy89QyPFMy55BXhodj3nHwNj8HF4aqehQZs2XVdD0uXLa6YhQBgDAHIeVWlWXtERREURFERREURFERRFm+3FuX0tLlfetplfl0Ox/f6Vbo2iRzoXbPBC5+IkxsbM3djgfks3l3IEcTvt0Bx+YBx86+dtonEua47aeY0Xqp8QZE1pAJza/Z2UnZG5SO7vbEMOFnM0WCCCCcEfLH712sYYZ6OCrPrDgd4jY+Y18wvP0kjWVEkTfVJzN8DuPI6eS1FebXVXMjrGvE7qB61kAk6Iq1zIbi3dYT4CpBbGc+dSxjIRrYj73S11m7zs/d2xE9hhgd+5DAFD6HqK9jQ/iGGUdlVix62vfxHLxXLlo3NOaLUKq2p39swjuIZUbliWIgn+tXv6dh8/FGQf8AVy1FbVM4T8EKdW1I93DBPwE+8U7tR8zWL4Xh4zFwv43Kw6WqqOH+E50/RX0wLMXWS6PvyY9z0ArzeJ4ya49kBlZ05nxVymphFqdSnC3UaFUmYIx69DXCyE6jZW1YrRF4TgEkgADf0pZYJAF1iLe59tv7u/5i4f7EZAzGvhBr02LwuiigoG/+Nt3f7O193zVLDaiOMyVUv6zYeDdLqS6HtaQ2sTb3EgjBG/M1t+GKc+nOmcNIwT5nQe663/EFSJKNsUZv2hAHzX0tHijQIjKAAABmu2TfUqINDRYclJnrzFFle0RFERREURFERREURFERRFXu7dLq3mt5RlJUKkehrZjyxwcORUcjBIwsPML5xHC9vPJayELcWzd2SVHiXp8iPKuL+IIjTzipjF2ya+YWcJjbVw+jykh8WnflO3kublZLV4L23Zmnt24ssctIp5gk1UweqbI6SkqTwSj2O5H77uivYlQ9nEyWAcUfvHMfP/ta2zvIbyzS5hcd065yenx+FcippZKWZ0Mg1HvWIZmzMD2bFZTWtav11KeOG4MEcLcKxgA5x1OR/wAFW6emYYg5w1+9FYAC0GkO95Bb3cgVcx+IAc2B5/zqnNZhLAtUz8/Wq6wqeoRmZY41kZObHhYjO3pUsVhqRdbBWLY/YR5PEQMZ+FaP9bZYKkIDbHGOta3ssLN6/e3WnJFFbuEkmZiZcZIA5AVfp4mynVbNFypOyuqXN4biG8fvO74SshwCcnGD8+Va1cDWEZUcLL3tTfskI021bNzdDxEfcTqa6WCUzGF1dUDgj1He7kB97rm1bnyubTRes73DmUvhja0RVtnMYVeHHTy/Pcj51zjXySSvllFy43P37F1ZMLYWMbGbZRba/wB+PemXZSz9r1h7xuIx2g4VLZPE5Hn6Cvb0cbqahAeOOQ3PcOQXmzaas4TdkXCD1PNbO4/u0p68B/atV0FzYkmzhYnJKAk0RWKIiiIoiKIiiIoiKIiiIoi8wPKiLKdsNOKsuqW6nijHDOo6r5/KpTCyugdRyc9WnoVRmfJSTCsjF7aOHVv8JHG6yqpj3BG1fPZoJIJXRSizmnXy+9D5r2MM0c8bZIzdrvh97quYJrSG5iikZLafdo8YAPXfpmu+6pNZHH2zLyN0zDmOQt1XGbSx08r3RnhOtuQPPyTPTNKg1KzhutREczso4Hjfdl6cRBwTXKqpHQSuiaCCNwep6BSiRrtWG4KfxqkcaJGAqKOFVA5VQJJN0Xe/TnWESTVr2O3vOExtM4UeHi4Qg+Pma6VHRyTsuDYdVIxhdsreizRT2rPDxgcRBjfmh6jPWq9XE6KTK7dauFjZX6qrVV76xtr+HuruPjXORvgit2SOYcwKeCzOrQDTbmG2tZIoYmbvFRW+0YjYFs74HSutSsfNE6ctuBoTyF1qJow/I5wzHl3LmKBxNJdTszyyneQjp0HpTEqt8kUcLG5Y2jQDmepU2H00UTnvvdx69OgXs7SO621qvFcTEKg/nU2AYYKqTtpvy2WJ7z0ChxrEPR4xDF+Y/Qd3et5o+nx6ZYRWyblR4m/Eepr1M0pleXFcqmgEMQYFauP7tL/oP7VErC40/wDuMH/tiiKxREURFERREURFERRFRv8AVbHT5oor26SF5jiMOccRrUuDdypY4ZJL5BeyuoQygqQQeRFbKLxXtEVO/uFt4WJj70kY7sEZYfOtHOLG3aLlbNjz6cvasnZWlrbTy4ieMFuJY3bIQHoK4eJ1LquUPlaA5ot3nxP8LekpxSRmOJxyk3t08OaivnjkcrEAV5N6+lcaeVzCGgWI1+i6tLEC3M7W6WW6XOlymbTJBwMftLZ/cb1HlXXZikFdGIcSFyNnjcePUffeudNhMlO4yUWgO7Tt5dE6se0llOViui1rP+CYYHyPWoanAqhje0pyJWHm35hVmV7c2SYZHdD8inIZXUNGQw9DXEc1zTZ2ivAg6jZIO0MESXcU3tKQvIn3weE49R8a6+GVj4WkNFwpo3loTDQoI4rEPBJ3qysWLYxnpsKpV0rpZiXclo43KtXV5b2il7iaONRz42ArSnpJ6l2WJhJ7goJZo4hd7gAkF32iluQYtHiJz/5mUYUfAda7bcJpqICTEni/7GnU+NtvvZVGz1FXw0rdP3HQeXVULazMMrzyO09zJu8z86pYhi0tWBGwZI27NHd16/fiutQYZHS8ZOZ53J+A6J5YPC8bRyAcQHu551FG5z2ZiNPctahvZyWa76he6QsNjfy3CWck0jgLxg/9MdQM16CirZBTtpms4R0+JXPfRsdO6ovdx69Og6LXxuHRWTBB8q6S0IIXlz/dpv8AQf2oiis2VbKDiIA4BvnblRFZBB6/WiL2iIoiKIiiIoizva3W7zSPZhZQQzNNxACViMkDOBjz3qGWQstortHTMnJzEjwXz/tLr8faGC1ub20a3hEEyNh8nj8JUgeYIH1qnLMHuAIXepKF9MXBjr3ISjQ+2Ot6TKGSfv0PvwS5K8uQ8qMe5mysVWExStu3R3VaM9uNT1bgSxvUtZjzj7ri/wB6jdVytPENF5iqw6pp3cWynmmmu3Z7ubimC44m6keQrr57NbZt9vfzXbhYGRtDBuuZtaFlaxrNHLKUJKY6Dqvwz+W9UcQja5zSd/kudiHZxOzczf3bIae2ewOq2M6xQknvbS4k4WjP+XPOrU8NDiUQbNwuGgcPmvORy1OHvMkJzMOpafku4LuK5TMD+LGccq8rXYRVULgZhwfuGo9vL7svQ0eLU9aw9keP9p3/AJQ8dtKETBkJH2iuMjr/ADxjO9bGodTNzwOynlY/f081QpGSVEpZOCR+q45/dvJRpYCE8VpNPb43AjkOPy5VYb+IqhwtOxkniPiVafgdPe8TnM8Dp77r2S2uZ8C4u5bhV9wPjK558qx6dBUcMcIjI6c/+vmsNo30pu6QuB68rL0W93wd1/EbhYh7sUZChR5edZ/q8MWjaZpcOZvqsHCjOc5ldY8hay4/h0KAycBllAyplYuc/Oo5MerZuAuDG9Gi2nkpG4TTQNL2MzOG1zfXzVgNCChhkLDB7xWPu+W3MfTHWqtWxhF7DMdup+pVfDaiV0haXXaL37j8vu6jW7M91HZ2YWS4kbhQFgo/OutQfh17rS1xyM5D9R+nx8FHWY+25hohnf1/SNeZ5ruXUNE0eW4tLi4mm1P3e9SPKo3PhH7ZrqV00ToPR4m5WDYfNUqaIslM0zszzufkF5c3ovjEEkKWqqAvECBnG5I+Oa2p8rKcFovp3am69TRtYIRIwXJ+qhfUbuzgzBqD2kSsCzcYCnp1pWSPZEHtGtwq+Jxs7MPOhvul9x/aVqWXitDHPEQR3k0fD8xyqlHPNbjUNFhc04DiLDvWcude1a6cPc3kz4G0YJCj4D0rVzi7mvTR4ZDG0ZRey+s9gJIotEw92ZGeVuEyyZZhyB+fOrlMbsXl8SafSDZtlrBvVhc5e0RFERRF4TiiLGf2h6nZ28djE9xELhLlJBGW8QXqcVBORYLrYTEXSONtLFYTtBCslvawWwyrXckmR9MeniqidBovQUV2vLn8gmVjosRtgvD72x2qZkVwopqkhyivezcRIdEw45Go3wkaLIqw5uVwuCk8epX1leyWY7uZRsGbOV9Knine1uXdSQ0bQzfRWVGptxTi4IbHuqvhHyqtURmU5nKvVUcMoVd9VkScJeWiPge8GAI+RH86rejnkbffivMVlKad3ENFJd6tYWiKgtpUYH3YkXPy35VaoqqtpjZj7t6HUey3wVIYUyvu7JqOY39qu2OuxvEGimLDqsybj5ipXx4ZVH+9CY3dWHT2fx5rXNitCcrX5x0d9d1bh1+2Y4cjiB6MD+9QH8NwyEGnqQfEWKnH4jkYLT05Hgb/AET/AESaG5jeX7ucb/8APWubUYe+gfkc4OJ6eauMr21sYfG0gA89FR1S9htLlg4bBAORyxU1NgbqxnbCRrRtrvotJ8ajpD2Rjc492yXLrSTMyQmIYOPGTt8quf0TDacXnmL+5oVN2OV0v5MIaOrjf3fyl2panwKTLPxgb4UHFXIa2GmFqGEMJ/UdXffn5KlJS1Va4ekyF46DQexUbG4sLmRLgJK02zIxXBUdN87VRmkqHuLpHXPW6siBsH9sNsrJuJ2mIto4wTzZk4nPqT51AI8+hJK7FDQmUZnbKczahar4+CQkZPEMfWuhTF8Lcrdl6OGnia3KCqUE82tXDQzqilBlUVfr8f61pM+SZ3EVpPQtEwe83aNvFO7Xs5Gqbpuef71s2C+62fXF2yg1vRkNuxT38ViSO2oUlNU3Nkrt9OiurOCS4QPFAG4kI98jkKjA59FJJLlJa3mvs+hQeyaRZwsSSsSg/GulGLNC8VUOzyuI2uUyrdRIoiKIvDv0oiw/bnSrV9Tsrm4hRobg9zKcbq/NGB/MVBKASLrr4bM4Nc1u41HzWf1S0MV3a25GGQHB/eoHss5deCXOC5ObCBu7qdrVTmeLq5JECN/I/SpMosoQ8XWRs9Kje5mkfeRpCxPxNQMjGq65qC2MBaKHT1SNl4dmFSBi5757lJNf0hXi41QF1HEN+fpUMsQy3WSxlU0MesvY6TNdvxTHxMd8bY/oKhERsutEyGkjEbBop7ns5LC5ZMhwdiDgj51gxuUbzBUDjCS3EdwsoSZG41ORvjJrAIAsvPVOASGcdgeArfaFFftpsKwgW0QXYFOJm9fKufMYYzxlWTRwwcDje3TZKe1huoVjFxCJCTjvV2yPI+RqaEMPE3ZYfhTappMbten3ySG0e5llIteJctkkjfON/wD9qyW5+SYfghaC6q012TD+AXMy8csjMcfe3xW4iNtF2o/RojwNCoQWsun3ycSAh28Y6fEVG8EixNlDV4ZT1VpBuFvdO0xSqswyfWrcULWNFlVdIIxkarV5p6yoxK1MWWWsc+UpLZaclvrMEsZA4iUPzH+1RmMZgrs05fDZazu/Fjr5VM4dFyM6XapbHu81E8XVqnfqkccDfwe67jIbixxDkDUIju02VovHatBW97EXt9qGgQT6kUZySEkVeESKNg2P+Zq1HfLqvOV8UcVQWsWiqRU0URFEXh+GaIvnn9pfaKJYjpEFvM9wJEbvyMJGwORv51XnfbRdvB6Vz5O0JsEjTVr1oLaXVLVJF4sCSPYjbrUZkIsXBdT0VjXERuXsvbuK1vY0tLHv7NQe9ZjhmP8Al6betZFSAdtFD/TJZGlzjryWl0/tLoWqxr7PepDJ1iuPAw+Rq02Rjguc+CpgPE1Uo4RHeSBNwHJBHUHetWt3VwPLo9U4V40t+9ldUjQZZmOAK2JDVTdfNYJLBrGn61DcG2lIeNuEq/M7+8PSomua8EK02OWFwzDRWNNskwMLgkc8Vs1gWZ5zZTTLZm6FgZ4zdtH3giJHEV88UsCbKBkrxxckhm0pX1J3ZBtjnVYxcWq6jagiMJ/Z/wDdYwrLsRtXExLDpJXXauc+zje6U9oIBfRhChGPEKu0dG+KKz1cpXdnqFX7OaMqs5CgkYGSPSunDHopKyrWnawQxlRwFl95RzHxqfIFye3N1k9f0/jkXuVHGGwAPM1XfGCbLr08xDSXFayxtpY4EBXcABjVgR2C5E0wLioUv7K8a4js7mOZ4SFlCH3T5ZoCDoCshrhZzhol/DDFfxS3DrHEhLsznAGBWjhY6q09xLLNXGr9tNKsEZbF/bpd9oz4R8TR8zWrSHD6iXVwsFNeXVwbTvpBG5dQ6hRgLtnFRvNuJZhjbmtdZa+1Ce7Sz0+WVLSK6dRKACAqk7knzqLtLADqugyJsYfK0XI2X2SyihgtYYbbh7mNAE4eWKuAaLx8jnOcS7dWaytUURFEXhFEWL7eaWPDqIhaW3KdzeRqN+HPhceqmoJmX1XVw2bXsybcx49PNY03QsrU2l94oWH2c67iTyII61XmuGWXfDO0cHt35hIXjgeAT9w0ZVx3ihhhlPUDOQajsLAlXQ57XZeSaRdnbe6t1kjPGGGR8PhUoi5hQuq3NNnhd2IvdAmEkbGa3Ay8LE4x6eRrdpdECVFIyGoZoLFKdS1C/wBduSZSxhGSkCnCIvr5n41C+Rz1PBSxQNuprLSL6M+0QSd1Iuwx5etZaxw1Cy+SB/C4JlqHau9gs4rW3QQ3gGJpRuPio6E/SpZJyBlG6pR4e1zy5xu1Z42l7NKLlnlacni78v48/GoRn9ZdHs4A3KNk8sO0epWcmNQhF0nIsfC3xz1qRsxHrBUpKBjh/adZb3Qby11S1M1ozNw+8jDBT41cYQ5q4dU18L7P0STtTrdpp0/sqr7RdjnGhwE+J/lUM0jRoBqrtBTyzDMNlnk1jtBco4tpVtYzviNN9/8ANUHaPtYBdB1FTNdxm6pWdzrGhzveW8hZ5P8AqrISwk+P9a0bK9jtVJLSU07coFrJjca9faoY2sIxbMB4mAyeLnsfLepnTOf6qhZRMjH903XP8L1W7Vhc6jcsDzHekCtsj3DUrbNSMPCxVFs7nQ5Rd2khynvDow8jUWR0ZuCpy6OoblIsnKaVNrk4vtROY+EOkS+6B5YqfI6SxKodtHA3IzUqPVNAjdG7tERQu7DlWJImhTw1hG6v6hqdosdrZIzSxJGBJKi5XHkD1zWlRILANVOCCVxdIdNUl12WLUXS3tFDO25YjwovVifKo32dsrtOTCCXL6N/Z9ZXNjoKJcPIYnfihEp8QXzPkCeQ6DFW4mkN1XmMSkZJOS0a8/FampFQRREURFEXEmDkMMgjcURfDu0ksus65cppcEgsLeYiOFCAvEPeYDbmc1Rk43aL2WH5YYQ6U8R5pnpk2m+z+z3EKxMB4kkUKa2IZbVJRMXZmG6rw6ounX3stugntjy4WwUHr5jyqOGc3I5Ld9O6SPMd07u5bDU7CS3kWeFnTCv3WeE+e1WXvjc3Vc9omheHBKuzUcUTNa3EYDqfLB+NYiLDsr1Y8uAcCteLKORNlwfLFWcoI0XGNQWu1Kyet6IF1mGYghGThOR1BP8AWqskXHddakrLxEXTqx0uMxDYbVK1gVSapN7qa60WBlzwAg1sYwd1GyrIOiURRzaRd99Zyd23ubnwkMQu/nuQR6gVoQWHRWZslSyz1xZaBGZ+9kzJIxyzvzY+ZrHZAm5UjqzIwNGlk+j05I1xwj5VL2TVR9JLje6p3GnB+LKjhG5J6Vq+JpCnbUEc1zpGkBC7lOFWclR5DAA/bPzrMcYaFrPVm1rpq1uiA4U8utSBqqiUkpJci1nn9lknhQnchjuPWoiWE2KuZ3MZmATX+I6VbKqvew8KrgIu5OPKtjIxul1S7OaQ6BJpbyPWCyMDDaIxBVtnk+I6D0qq+TtTa2ivRwuh1Orkj1uOyt0Hs0giYdUP0rAYGrowOkdq9Nv7MILfVri5ivOF1twrLGAAHyebeePKkABOq5uNPdEG5OfNfV1XGNuVXF5hd0RFERREUReEZoizuudjNI1hjLLB3F10uIDwP9OdRPia5XKevng0adOhSj/+Gmx3dxcwXsI5GeMhx8xWoh66q9/VRuG2PcvnN7E9r2qvbazt2f2aUoI03wBtufrvVQjK4gL0FPKH04c87haiG9vIICz6dP3YGWaMB8fJST9KtXOX1VRc2NzrZkr1PWLCaM/dlHun3WH86qSOG7TYq3BTu8QvdI1fXLWMSXFxMtqRiMSIMsemCelbtmkaLKKalp5XWaNU3MGqavAvf3zAHfhQAVse2kF1WAggdsrUEmrabHg93ccO32gwfzFbtkkjFiLqJzIZjcGyoX/bG5gZY5NNTvByJk2/asCsN9lOzCw5ubOl9+up9oJjAGSG3iYOAgPiYDIz8D9ajfI+Q3AU8bIKccWpVm37QXOmIU1KEzmNwpaHbI896kZVZRZwUclIJTeM2TO17X2163BZ6fOzLz7yQKKm9KGwCquwuVmr3KZZNUuG439lEI3EQUkfnmsh8t9lp2UDdOap6l2g1LTcqtpalSff32rV07xyU0dBHMfWSmXXdWuihv7tLWGQ4QwgLxemarvnldpsrbKOFmjdSr9tPpNmhP2YbmXc5JPnUgbGNSdVG+Od2gCWarrmmThkjCSEDcpvj8uVYcI91YhiezRxAVXs/Bfa/Lc22nEO6J3nECOWcc81E1pceFZqqiKmsXlP9O7Aar3qtIkER6z3Ld4V/wBKDb8zVpkJG6502MQkcz3bLcdn+y1tolxJdRyvLcSoEZ2AAxnkABUjIw03XFqq19QA0iwHJaCt1TRREURFERREURFERRFnNV7EaBqs0s11ZkSysXdklZcseZxnGflUbomu3VyHEKiEWY5J3/s0toTnTNWvrXyUkMB+1adjYcJVxuMyn8xocmOn9kHtyDe6rNdY841B/Pc1sGHmVDNiJf6rAFB260SK40pDbqsTowHeY90/dz6Z2+daTRgtuFnD6t0ct3HdfOtK1rVJFMMFszSREpJvgIw2IJNQsc+2i9FIyAgOPNWZ9S1ni4WhiLeSyg1lz3lasbAOqX3KXlq8d5qUPCXP2XHyJqLLY3KsMlilu2I7LT6TfW0MQ+23IJLHqTzNWoi0DRc6aJ5KT9oL2CVyy4KkYZce8P61BLlJV6mjcB3rjSrGeKEXtiDcW0nusPCTj4+VYjaRqtZqmNxySaOTL+M3MC/a2lwPUJn9qsidw5KDsIn7EJNq2qNfvHBArd6xC4I3yTttUckubRXIY2QgvJ2X03S+yluOztvaOTDNwZd1AOSfxA7GpWxjLYryktc/ty4ahK/+z+WOXMJ0hhn3pLHxfvisdkRsfcrf9WBbZwPkUztux0qBRLq86qP/AA7aNYlFbta7mVXdiR/Sweeqa6V2fstLnluYAzXMq8Mkz44nGc74ArZrQ3UKnNUPmAD+SagHzrZQLqiIoiKIiiIoi5d1T3mA+JxRFz38X+In6hREd/F/iJ+oURHfxf4ifqFER38X+In6hREd/F/iJ+oURHfxf4ifqFEUVx7PcQyQzPG0cilWHENwawRcWKy0lpuEnsuzOg2cYRYYpfEWLSvxEknJO/U1o2JrdlZkrJ37uTCKx0uFuKK3tEPmFWt8oUBlkItdeapYabq1m1nepFJE3IcQ8PqPKsOYHCxW0M0kL87DYr5t2i7A3VlH3ugXRvE4gDbO6h1+DHb86rPpyNWr0FJjUZ/5A16q5oP9m6ShZNfvlkYn+7W7+EehbmfpWzabm5R1OOuJtCLd6+hQ2tna20dpHHEkEa8KxYGAKsBoAsuAXuc7MTql112c0S5JJiWJj1hl4D9DWpjaVPHVzR7FU7Tsfo9vqEN4ZZJngPFGJZA3CfPPOtRC0G6lfiEz2Fu11phLGPvr+oVKqKO+j/Gv6hREd9H+Nf1CiI76P8a/qFER30f41/UKIjvo/wAa/qFER30f41/UKIulYN7pBoi6oi//2Q==